Chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động
Theo Vụ Kinh tế ngành, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, trong 7 năm qua, các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy đảng các cấp đã nghiêm túc triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Công tác tuyên truyền, quán triệt được thực hiện đồng bộ, phong phú, góp phần thay đổi nhận thức sâu sắc trong toàn xã hội về vai trò chiến lược của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Du lịch biển phát triển mạnh, tạo diện mạo mới cho hệ thống đô thị ven biển hiện đại, đồng bộ. Ảnh: Lan Anh.
Các cấp ủy, tổ chức Đảng đã chủ động ban hành và thực hiện chương trình hành động cụ thể, đồng thời tích cực thể chế hóa các quan điểm, mục tiêu, giải pháp của Nghị quyết thông qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách. Việc sửa đổi, bổ sung các luật, văn bản dưới luật về tài nguyên, môi trường biển, kinh tế biển, an ninh, quốc phòng được triển khai quyết liệt, tạo nền tảng pháp lý quan trọng để phát triển bền vững.
Nhờ đó, nhiều ngành kinh tế biển đạt được bước tiến vượt bậc. Du lịch biển phát triển mạnh, tạo diện mạo mới cho hệ thống đô thị ven biển hiện đại, đồng bộ. Hệ thống cảng biển, logistics được đầu tư mở rộng, năng lực vận tải nâng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển. Ngành dầu khí tiếp tục giữ vai trò trụ cột, làm chủ công nghệ thăm dò, khai thác và chế biến, góp phần quan trọng vào ngân sách nhà nước và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Kinh tế thủy sản phát triển nhanh, nhiều sản phẩm xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Năng lượng tái tạo biển, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, được đầu tư mạnh, từng bước gia tăng tỷ trọng trong cơ cấu năng lượng quốc gia. Các khu kinh tế ven biển thu hút lượng vốn đầu tư lớn, hình thành các tập đoàn mạnh, tạo động lực tăng trưởng cho địa phương và cả nước.
Đặc biệt, khu kinh tế ven biển tiếp tục khẳng định vai trò hạt nhân tăng trưởng mới. Cả nước hiện có 19 khu kinh tế ven biển, thu hút hàng nghìn dự án đầu tư trong và ngoài nước, tạo giá trị sản xuất lớn, việc làm ổn định và đóng góp đáng kể cho ngân sách. Một số khu kinh tế được định hướng phát triển theo mô hình khu công nghiệp sinh thái, cảng xanh, đô thị thông minh ven biển.
Tính đến nay, các Khu kinh tế ven biển cả nước có 553 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án đạt 54,36 tỉ USD; có 1604 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án đạt 1.371.723,5 tỉ đồng.
Về phát triển năng lượng tái tạo tại các vùng ven biển và hải đảo đạt nhiều kết quả đáng kể, công suất điện mặt trời đã đạt khoảng 17 GW, còn điện gió đạt 4.900–5.700 MW (đến 2023–2024), phần lớn là điện gió trên bờ và ven bờ tại các tỉnh Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Tại các đảo có dân cư và các đảo tiền tiêu, hệ thống năng lượng mặt trời, gió quy mô nhỏ phát triển mạnh, riêng quần đảo Trường Sa và các nhà giàn DK1 đã được trang bị đồng bộ hàng nghìn tấm pin mặt trời, tuabin gió và hệ thống lưu trữ, với chương trình nâng cấp năm 2024 trị giá 88,7 tỷ đồng, giúp duy trì điện 24/24 giờ, giảm mạnh phụ thuộc vào máy phát diezel. Các đảo lớn như Phú Quốc, Côn Đảo, Lý Sơn được bảo đảm điện ổn định bằng kết hợp điện lưới quốc gia và nguồn tái tạo bổ trợ.
Nhìn chung, năng lượng tái tạo trên biển, đảo đã có bước tiến thực chất ở quy mô vừa và nhỏ, góp phần cải thiện an ninh năng lượng và phát triển bền vững; còn các dự án lớn trên biển vẫn đang trong giai đoạn đặt nền tảng, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, quy hoạch và hạ tầng để có thể triển khai trong thời gian tới.
Tỷ trọng GRDP của 28 tỉnh đóng góp vào tổng GRDP của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ năm 2018 đến năm 2024: 50,93% (năm 2018); 51,00% (năm 2019); 50,05% (năm 2020); 49,83% (năm 2021); 50,07% (năm 2022); 49,76% (năm 2023); 49,70% (năm 2024).
Tập trung nguồn lực, hoàn thiện thể chế và phát triển xanh
Bên cạnh kết quả đạt được, kinh tế biển vẫn đối mặt nhiều hạn chế: một số chỉ tiêu khó đạt mục tiêu đến năm 2030; quy mô và cơ cấu ngành nghề chưa tương xứng tiềm năng; hạ tầng kỹ thuật biển còn thiếu đồng bộ; khoa học công nghệ, nhân lực biển và chuyển đổi số chưa trở thành động lực then chốt. Đáng chú ý, tình trạng khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU) chưa được khắc phục triệt để; đa dạng sinh học biển suy giảm; ô nhiễm môi trường ở vùng ven biển diễn biến phức tạp.
Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm chung của toàn hệ thống chính trị và toàn dân nhằm hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, thịnh vượng, an ninh và bền vững. Ảnh: Lan Anh.
Để khắc phục tồn tại, Vụ Kinh tế ngành cho rằng cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng; hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ về quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển kinh tế biển; huy động nguồn lực đầu tư hạ tầng biển hiện đại, gắn với bảo vệ môi trường và bảo tồn hệ sinh thái.
Chú trọng phát triển các ngành kinh tế biển ưu tiên như: điện gió ngoài khơi, cảng biển – logistics, nuôi biển công nghiệp, du lịch biển và kinh tế tuần hoàn biển. Đẩy mạnh điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao; ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, công nghệ mới, hình thành trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo về biển.
Song song với phát triển kinh tế, cần tăng cường năng lực quốc phòng, an ninh, bảo đảm an toàn trên biển; phát triển lực lượng chấp pháp trên biển cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; củng cố “thế trận lòng dân” trên biển, hỗ trợ ngư dân bám biển dài ngày, trở thành “cột mốc sống” bảo vệ chủ quyền.
Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm chung của toàn hệ thống chính trị và toàn dân nhằm hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, thịnh vượng, an ninh và bền vững.
Đến hết năm 2024, hải đồ tỷ lệ 1/200.000 đã được thành lập trên diện tích khoảng 819.500 km², đạt 82% vùng biển Việt Nam; cùng với đó là nhiều hải đồ và bản đồ địa hình đáy biển chi tiết ở các tỷ lệ 1/100.000 đến 1/5.000 tại Trường Sa, Hoàng Sa, vùng ven bờ, cửa sông và các khu vực chiến lược.

















