| Hotline: 0983.970.780

Nuôi biển công nghiệp cần cú hích từ thể chế và công nghệ

Thứ Sáu 12/12/2025 , 11:09 (GMT+7)

Nuôi biển công nghiệp là hướng đi tất yếu trong phát triển kinh tế biển bền vững, nhưng để bứt phá cần nền tảng thể chế, công nghệ và nguồn lực đủ mạnh.

Lợi thế lớn nhưng phát triển chưa tương xứng

Sở hữu hơn một triệu km² vùng đặc quyền kinh tế và 3.260 km đường bờ biển, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có nhiều vũng, vịnh kín gió thuận lợi nhất châu Á để phát triển nuôi biển công nghiệp. Tuy nhiên, theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, những lợi thế này vẫn chưa được chuyển hóa thành năng lực sản xuất tương xứng.

"Chúng ta có nguồn tài nguyên biển rất lớn nhưng phần ‘nước’ của đất nước vẫn chưa đóng góp đúng tầm vào tăng trưởng kinh tế. Nuôi biển còn manh mún, tự phát và thiếu nền tảng thể chế, công nghệ để phát triển bền vững”, ông Dũng nhận định.

Nuôi biển hiện diễn ra tại 21 tỉnh ven biển nhưng vẫn tập trung ở vùng ven bờ, nơi mật độ lồng bè dày và rủi ro môi trường lớn. Ảnh: Hoàng Nguyên.

Nuôi biển hiện diễn ra tại 21 tỉnh ven biển nhưng vẫn tập trung ở vùng ven bờ, nơi mật độ lồng bè dày và rủi ro môi trường lớn. Ảnh: Hoàng Nguyên.

Thực tế thế giới cho thấy xu hướng chuyển từ khai thác sang nuôi trồng ngày càng rõ rệt khi nguồn lợi thủy sản tự nhiên suy giảm mạnh, trong khi nhu cầu thực phẩm biển liên tục tăng. Dù chiếm tới 71% diện tích bề mặt Trái đất, nuôi biển chỉ đóng góp chưa đến 0,5% sản lượng thực phẩm toàn cầu. Việt Nam có điều kiện tự nhiên để nắm bắt xu thế này nhưng tốc độ phát triển còn chậm, chưa theo kịp nhu cầu thị trường và yêu cầu hội nhập.

Nuôi biển hiện diễn ra tại 21 tỉnh ven biển nhưng vẫn tập trung ở vùng ven bờ, nơi mật độ lồng bè dày và rủi ro môi trường ngày càng lớn, trong khi khu vực xa bờ sạch hơn và có tiềm năng phát triển quy mô lớn mới chỉ có 27 cơ sở được đầu tư. Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, nguyên nhân chính là thiếu cơ chế giao khu vực biển dài hạn, khiến doanh nghiệp không dám đầu tư lồng công nghệ cao hay hạ tầng biển khơi: “Không ai bỏ hàng trăm tỷ đồng nếu chỉ được giao biển vài năm”.

Nhiều địa phương còn phổ biến nuôi biển với lồng tre gỗ, thức ăn tươi và công nghệ thấp; con giống thiếu ổn định, phụ thuộc nhập khẩu, đặc biệt là tôm hùm giống, làm tăng rủi ro dịch bệnh. Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho rằng, quy mô nhỏ lẻ khiến nuôi biển khó phát triển đúng tầm và dễ tổn thương trước ô nhiễm hay sự cố tảo độc. Nếu không sớm thay đổi phương thức tổ chức sản xuất và hoàn thiện thể chế, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội đưa nuôi biển trở thành một trụ cột quan trọng của kinh tế xanh.

Cụm công nghiệp nuôi biển - hướng đi để thoát khỏi manh mún

Trước những hạn chế đó, việc hình thành các cụm công nghiệp nuôi biển được nhiều chuyên gia đánh giá là giải pháp đột phá để thay đổi phương thức tổ chức sản xuất. Mô hình này bao gồm hạ tầng đồng bộ trên biển và trên bờ, tạo thành một hệ sinh thái sản xuất hoàn chỉnh. Trên biển là hệ thống lồng HDPE công nghệ cao, lồng chìm thép biển khơi, phao neo chịu sóng lớn, hệ thống camera và cảm biến IoT theo dõi liên tục chất lượng nước, tốc độ dòng chảy và tình trạng vật nuôi.

Trên bờ là khu sản xuất giống, nhà máy chế biến, kho lạnh, trung tâm hậu cần, dịch vụ kỹ thuật, khu đào tạo và nghiên cứu. Theo mô hình này, người dân hoặc hợp tác xã không cần đầu tư toàn bộ hạ tầng ban đầu mà chỉ thuê lại để sản xuất, giảm chi phí, hạn chế rủi ro và dễ tiếp cận công nghệ cao.

Mô hình nuôi cá biển công nghiệp tại Vịnh Vân Phong (Khánh Hòa). Ảnh: Minh Chiến.

Mô hình nuôi cá biển công nghiệp tại Vịnh Vân Phong (Khánh Hòa). Ảnh: Minh Chiến.

Một trong những mô hình tiêu biểu là cụm công nghiệp nuôi cá biển công nghiệp tại Vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) do Công ty Australis đầu tư. Doanh nghiệp này áp dụng công nghệ Na Uy - Nhật Bản, sản xuất trên 12.000 tấn cá mỗi năm, vận hành chuỗi khép kín từ giống, nuôi thương phẩm đến chế biến và xuất khẩu sang các thị trường khó tính. Thành công này được xem như minh chứng cho sự hiệu quả của mô hình công nghiệp hóa nuôi biển và cho thấy tiềm năng lớn nếu có tổ chức sản xuất phù hợp. Nhiều doanh nghiệp trong nước như Super Trường Phát, Mực Nhảy Biển Đông hay các tổ hợp tác tại Quảng Ninh cũng đã bắt đầu đầu tư vào hạ tầng tập trung, tạo bước chuyển động đáng ghi nhận.

Đột phá công nghệ “chìa khóa” để vươn tầm khu vực

Cùng với mô hình tổ chức, yếu tố công nghệ được xem là động lực then chốt để nâng năng suất và bảo đảm phát triển bền vững. PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, Việt Nam cần tập trung vào sáu nhóm công nghệ cốt lõi: công nghệ sản xuất giống; lồng biển khơi và thiết bị nuôi; thức ăn công nghiệp; công nghệ thu hoạch, bảo quản và chế biến; công nghệ sinh học tận dụng phụ phẩm; và công nghệ số. Trong đó, công nghệ số, đặc biệt là IoT, AI và dữ liệu lớn, sẽ giúp giám sát môi trường theo thời gian thực, cảnh báo sớm sự cố và tối ưu hóa quá trình cho ăn (vốn chiếm đến 60% chi phí sản xuất). Công nghệ sẽ giúp giảm phát thải, giảm ô nhiễm từ thức ăn dư thừa, đồng thời đảm bảo truy xuất nguồn gốc đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.

Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ cao vào nuôi biển vẫn gặp trở ngại lớn về chi phí. Các loại lồng biển khơi, tàu vận hành chuyên dụng, thiết bị cảm biến hay hệ thống điều khiển tự động đều đòi hỏi vốn đầu tư cao, vượt quá khả năng của nhiều hộ dân. Vì vậy, chính sách hỗ trợ tài chính từ tín dụng xanh, vốn ưu đãi đến bảo hiểm rủi ro cần được triển khai mạnh mẽ hơn. Đặc biệt, cơ chế bảo hiểm chỉ số bão và bảo hiểm tài sản nuôi biển là yêu cầu cấp thiết để giảm rủi ro thiên tai ngày càng gia tăng.

Gỡ nút thắt thể chế, nâng cao chất lượng nhân lực

Bên cạnh công nghệ, hoàn thiện thể chế được coi là điều kiện tiên quyết để thu hút đầu tư dài hạn. Cơ chế giao khu vực biển hiện nay phức tạp, thời hạn ngắn, khiến doanh nghiệp không đủ điều kiện tiếp cận tín dụng hay huy động vốn. Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đề xuất, cần sớm cấp “sổ xanh” - quyền sử dụng biển ổn định, dài hạn tương tự quyền sử dụng đất.

"Nếu chỉ được giao biển vài năm, người dân chỉ dám dựng lồng tạm. Muốn có lồng công nghệ cao, muốn có tàu hậu cần và nhà máy chế biến, phải có cơ chế sử dụng biển ít nhất 30-50 năm. Đồng thời, cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho nuôi biển để thống nhất quản lý, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc và tạo thuận lợi cho xuất khẩu”, ông Dũng nhấn mạnh.

Công nghệ được xem là động lực then chốt để nâng năng suất, đưa nuôi biển phát triển quy mô lớn. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Công nghệ được xem là động lực then chốt để nâng năng suất, đưa nuôi biển phát triển quy mô lớn. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Cùng với đó, theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, việc phát triển nhân lực là yêu cầu bức thiết. Việt Nam đang thiếu kỹ sư nuôi biển công nghiệp, thiếu kỹ thuật viên vận hành thiết bị tự động và thiếu cán bộ quản lý vùng nuôi được đào tạo bài bản. Việc thành lập các trung tâm đào tạo, tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học sẽ là nền tảng để xây dựng đội ngũ đáp ứng nhu cầu của ngành trong tương lai.

Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp về thể chế, công nghệ, tổ chức sản xuất và nhân lực, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu 9-10 triệu tấn sản lượng nuôi biển và 20 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2045.

PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng khẳng định, nuôi biển công nghiệp không chỉ giúp Việt Nam khai thác hiệu quả tiềm năng biển mà còn góp phần quan trọng vào chiến lược tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống cộng đồng ven biển. Đó là nền tảng để xây dựng kinh tế biển bền vững và đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Xem thêm
Ngành địa chất, khoáng sản hướng tới phát triển bền vững

Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, ngành Địa chất Việt Nam đã tạo dựng nền tảng khoa học vững chắc cho quản lý, khai thác tài nguyên khoáng sản bền vững.

Đánh giá khả năng chịu tải sông hồ, giải pháp phát triển đô thị xanh

Ô nhiễm sông hồ gia tăng cần thiết phải đánh giá sức chịu tải để kiểm soát xả thải, bảo vệ chất lượng nước và tạo nền tảng phát triển đô thị xanh, bền vững.

Đọc nhiều nhất

Bình luận mới nhất

Nuôi biển công nghiệp cần cú hích từ thể chế và công nghệ
Biển đảo 7 giây trước