| Hotline: 0983.970.780

‘Đánh thức’ tài nguyên biển

Thứ Hai 10/11/2025 , 15:34 (GMT+7)

Những tài nguyên trong lòng biển dần được xác định, điều tra là cơ sở cho việc khai thác bền vững và phát triển kinh tế biển xanh.

Hé lộ tiềm năng tài nguyên biển Việt Nam

Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết, theo quan điểm điều tra tích hợp, đa mục tiêu, các dự án điều tra địa chất khoáng sản biển được triển khai gắn liền với điều tra tổng hợp tài nguyên – môi trường biển, dựa trên hệ thống mạng lưới khảo sát thống nhất với các tỷ lệ từ 1:500.000 đến 1:50.000.

Công tác lấy mẫu trầm tích bằng ống phóng trọng lực tại vùng biển ven bờ Thanh Hóa - Nghệ An. Ảnh: Cục Biển và Hải đảo Việt Nam.

Công tác lấy mẫu trầm tích bằng ống phóng trọng lực tại vùng biển ven bờ Thanh Hóa - Nghệ An. Ảnh: Cục Biển và Hải đảo Việt Nam.

Tính đến nay, chúng ta đã điều tra tỷ lệ 1:500.000 trên diện tích khoảng 375.688 km² (chiếm 38% vùng biển Việt Nam); điều tra tỷ lệ 1:100.000 trên diện tích khoảng 30.518 km² và tỷ lệ 1:50.000 trên diện tích khoảng 3.023 km² (chiếm 0,3%).

Kết quả đã làm rõ đặc điểm địa chất, địa vật lý, trầm tích, địa hóa môi trường, cấu trúc – địa động lực và tai biến địa chất vùng biển Việt Nam; đồng thời phát hiện nhiều khu vực có triển vọng khoáng sản. Cụ thể đã khoanh định 62 vùng sa khoáng Ti-Zr-TR với tổng tài nguyên dự báo khoảng 164 triệu tấn; khoanh định 50 vùng vật liệu xây dựng (cát xây dựng, cát san lấp) với tổng tài nguyên dự báo khoảng 196,5 tỷ m³, tập trung tại Bình Thuận, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Côn Đảo và Bạch Long Vỹ. Ở vùng biển sâu, lần đầu tiên triển khai dự án nghiên cứu khí hydrate theo mạng lưới 1:500.000, bước đầu thu được số liệu khách quan phục vụ đánh giá tiềm năng.

Những kết quả này đã hình thành nguồn dữ liệu nền quan trọng, phục vụ đánh giá tiềm năng khoáng sản biển, định hướng khai thác hợp lý và phát triển bền vững kinh tế biển.

Bên cạnh nguồn tài nguyên khoáng sản, chúng ta đã thực hiện điều tra để xác định tiềm năng tài nguyên đất và tài nguyên nước ngầm.

Diện tích đất vùng ven biển và hải đảo Việt Nam với tổng diện tích 5.869.515 ha (năm 2010), trong đó, 93,46% là đất đang sử dụng; 6,54% là đất chưa sử dụng, chủ yếu là đất cồn cát, bãi cát rời rạc, nghèo dinh dưỡng, cần trồng rừng để cải tạo và bảo vệ. Từ đó, chúng ta đã xây dựng bản đồ định hướng quy hoạch sử dụng đất vùng ven biển đến năm 2020 tỷ lệ 1:250.000 cho 5 vùng (Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long), cùng bản đồ tỷ lệ 1:25.000–1:5.000 cho các cụm đảo.

Về tài nguyên nước dưới đất, điều tra tỷ lệ 1:200.000, xác định tổng trữ lượng khai thác tiềm năng đạt 16.734.219 m³/ngày, trong đó: Đông Bắc Bộ: 619.027 m³/ngày; Bắc Bộ: 967.610 m³/ngày; Bắc Trung Bộ: 4.180.513 m³/ngày; Nam Trung Bộ: 5.200.663 m³/ngày; Nam Bộ: 5.766.406 m³/ngày.

Khoảng 82% diện tích với khoáng 819.500 km² vùng biển Việt Nam có hải đồ tỷ lệ 1:200.000 trên diện tích. Với hải đồ tỷ lệ 1:100.000, hiện có khoảng 23,4% diện tích vùng biển được đo vẽ. Ngoài ra, đã đo đạc xây dựng hệ thống địa hình đáy biển chi tiết ở nhiều cấp tỷ lệ: 1:50.000 trên diện tích 182.250 km²; 1:25.000 trên diện tích 12.564 km²; 1:10.000 trên diện tích 4.755 km²; và 1:5.000 trên diện tích 7.123 km².

Nền tảng cho xây dựng hạ tầng biển đảo

Trước đây, công tác điều tra chủ yếu tập trung khảo sát cục bộ phục vụ các công trình cụ thể như cầu cảng, nhà giàn DKI, giàn khoan hay đường ống dẫn dầu khí. Những năm gần đây, đặc biệt tại quần đảo Trường Sa - DKI, thông qua 2 dự án do Bộ Quốc phòng chủ trì trong khuôn khổ Đề án 47, đã tiến hành điều tra và thành lập bản đồ địa chất công trình ở các tỷ lệ 1:10.000 đến 1:500.

Những công trình điều tra này đã xác định chỉ tiêu cơ lý nền san hô, làm cơ sở cho giải pháp mở rộng, tôn tạo đảo, xây dựng và duy tu công trình nhà giàn DKI, từ đó hình thành bộ dữ liệu tin cậy đầu tiên về địa chất, địa mạo, trầm tích, thạch học cấu trúc san hô và tính chất cơ lý đất đá, phục vụ phát triển và bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Đối với dải ven bờ, dự án “Điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất, địa chất công trình vùng ven biển Việt Nam” đã hoàn thành việc lập bản đồ địa chất công trình tỷ lệ 1:100.000 trên diện tích 16.829 km² (từ Quảng Ninh đến Ninh Thuận). 850 km² tại các khu vực trọng điểm (Thái Bình - Ninh Bình, Thanh Hóa - Nghệ An, Quảng Trị - Thừa Thiên Huế) cũng đã được lập bản đồ tỷ lệ 1:25.000.

Kết quả đã khoanh định các vùng kém ổn định về địa chất công trình, đồng thời nhận diện quá trình địa chất động lực như ngập lụt, xói lở, bồi tụ, nhiễm mặn - những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch và xây dựng hạ tầng ven biển.

Xác định tài nguyên đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân

Dự án “Điều tra tổng thể đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy hải sản vùng biển Việt Nam; quy hoạch và xây dựng hệ thống khu bảo tồn biển phục vụ phát triển bền vững” (2011–2017) đã cung cấp dữ liệu quan trọng, đồng bộ và có giá trị thực tiễn cao.

Việc thăm dò, điều tra, khảo sát là cơ sở khoa học cho quản lý tổng hợp tài nguyên, khai thác hợp lý, bảo vệ môi trường và đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân. Ảnh: Hoàng Nguyên.

Việc thăm dò, điều tra, khảo sát là cơ sở khoa học cho quản lý tổng hợp tài nguyên, khai thác hợp lý, bảo vệ môi trường và đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân. Ảnh: Hoàng Nguyên.

Từ đây, chúng ta đã thống kê được gần 1100 loài hải sản tầng đáy với trữ lượng tức thời khoảng 546 nghìn tấn trên diện tích điều tra hơn 403 nghìn km². Trong đó, vùng Đông Nam Bộ có trữ lượng cao nhất (gần 40% tổng nguồn lợi tầng đáy), trong khi vùng Tây Nam Bộ có mật độ phân bố cao nhất (1,6 tấn/km²). Trữ lượng cá nổi nhỏ ước đạt 2,45 triệu tấn, phân bố rộng, trong đó Đông Nam Bộ và miền Trung là hai khu vực giàu tiềm năng nhất. Các nghiên cứu đã xác định 18 bãi đẻ và bãi giống tự nhiên quan trọng để khoanh vùng bảo vệ, tái tạo nguồn lợi;

Từ đó, xây dựng nhiều bản đồ chuyên đề (cá nổi, cá đáy, trứng cá, ấu trùng tôm, rừng ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô…) với tỷ lệ từ 1:2.000.000 đến 1:50.000. Đồng thời quy hoạch chi tiết 7 khu bảo tồn biển mới, góp phần hoàn thiện mạng lưới bảo tồn biển quốc gia.

Kết quả này không chỉ làm rõ hiện trạng đa dạng sinh học, mà còn là cơ sở khoa học cho quản lý tổng hợp tài nguyên, khai thác hợp lý, bảo vệ môi trường và đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân.

Về tài nguyên vị thế, kỳ quan sinh thái và địa chất, Việt Nam đã xác định 24 khu vực có vị thế đặc biệt ở tầm quốc tế, quốc gia và địa phương; đề xuất 35 khu vực có giá trị kỳ quan sinh thái và địa chất ở các cấp độ, theo hình thức bảo tồn của thế giới và Việt Nam; Kiến nghị xây dựng 3 công viên địa chất quốc tế (Cát Bà – Long Châu; Lăng Cô – Hải Vân – Sơn Chà; vùng cát đỏ Phan Thiết) và 5 công viên sinh thái biển (Cô Tô, Cồn Cỏ, vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Nam Yết).

Xem thêm
Tìm kiếm tài nguyên cho tương lai

Trong khoảng một thập kỷ qua, nhiều tài nguyên, địa chất khoáng sản được phát hiện tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp, kinh tế xã hội đất nước.

Đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên nước

Việt Nam đang chứng kiến chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy, thể chế quản lý tài nguyên nước, hướng tới quản lý tổng hợp, thống nhất, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia.