Đại dương là nguồn sống thiết yếu của nhân loại đang chịu sức ép chưa từng có từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học và căng thẳng địa chính trị. Trong bối cảnh ấy, việc quản lý tổng hợp biển và đại dương, dựa trên khoa học và hợp tác quốc tế, trở thành yêu cầu sống còn để bảo vệ tương lai biển xanh của nhân loại.
Từ cam kết quốc tế đến hành động quốc gia
Với vị thế địa chính trị đặc biệt, Việt Nam luôn thể hiện vai trò tích cực, có trách nhiệm trong quản trị đại dương toàn cầu. Tại Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ ba tổ chức tại Pháp, Thủ tướng Phạm Minh Chính, đại diện các quốc gia ASEAN, đã nhấn mạnh định hướng phát triển kinh tế biển dựa trên khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường và hợp tác vì hòa bình, ổn định trên biển.
Khu dịch vụ hậu cần nghề cá trên đảo Đá Tây, quần đảo Trường Sa. Ảnh: Tùng Đinh.
Quản lý tổng hợp biển và đại dương không chỉ là công cụ kỹ thuật, mà là trụ cột chiến lược giúp Việt Nam khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế biển, bảo vệ môi trường và khẳng định vị thế một quốc gia biển có trách nhiệm.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hệ thống thể chế phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển từng bước được hoàn thiện. Nghị quyết 36-NQ/TW của Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, Nghị quyết 139/2024/QH15 của Quốc hội về Quy hoạch không gian biển quốc gia, và Nghị quyết 48/NQ-CP của Chính phủ về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc để đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Những định hướng này coi quản lý tổng hợp biển và đại dương là phương thức quản trị hiện đại, giúp loại bỏ chồng chéo, tăng cường phối hợp giữa các ngành, các địa phương, tối ưu hóa nguồn lực, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, quá trình triển khai còn nhiều khó khăn như chồng lấn quy hoạch, phân mảnh thông tin, thiếu cơ chế điều phối thống nhất. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 57-NQ/TW và 59-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế đã mở ra hướng đi mới, coi khoa học - công nghệ là động lực then chốt, đổi mới sáng tạo là chìa khóa bứt phá.
Hướng tới quốc gia mạnh, giàu và bền vững từ biển
Việc sáp nhập các tỉnh ven biển theo Nghị quyết 18-NQ/TW đã mở rộng không gian quản lý, tạo cơ hội liên kết vùng hiệu quả hơn, song cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về năng lực quản trị và chia sẻ dữ liệu. Đây là thời cơ thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng quy hoạch không gian biển thông minh, phát triển kinh tế biển xanh.
Công tác lấy mẫu trầm tích bằng ống phóng trọng lực tại vùng biển ven bờ Thanh Hóa - Nghệ An. Ảnh: Cục Biển và Hải đảo Việt Nam.
Hướng tới mốc 100 năm thành lập Đảng (2030) và mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam xác định vai trò trung tâm điều phối thực hiện các mục tiêu quốc gia về biển mạnh, bền vững, thịnh vượng và có trách nhiệm quốc tế. Trong đó tập trung vào các định hướng đột phá trong thời gian tới, đó là:
Hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý tổng hợp biển, xây dựng khung pháp lý hiện đại, minh bạch, nội luật hóa đầy đủ các điều ước quốc tế như UNCLOS 1982 và Hiệp định BBNJ 2025, đảm bảo quản lý dựa trên bằng chứng khoa học.
Bên cạnh đó, củng cố cơ chế chỉ đạo và điều phối thống nhất, trong đó cần tăng cường nguồn lực cho Văn phòng cơ quan thường trực Ủy ban Chỉ đạo Quốc gia về phát triển bền vững kinh tế biển, phát huy vai trò điều phối liên ngành, liên vùng; đồng thời đẩy mạnh phân cấp gắn với giám sát và hỗ trợ năng lực cho các địa phương ven biển.
Đồng thời thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực biển, coi đây là động lực chủ đạo. Tập trung nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ chiến lược như thăm dò biển sâu, năng lượng tái tạo ngoài khơi, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo – hướng tới hình thành “phương thức sản xuất số” trong kinh tế biển.
Cuối cùng là nâng tầm hội nhập quốc tế theo hướng đồng kiến tạo và dẫn dắt, chuyển từ vị thế “tham gia” sang “kiến tạo giá trị”. Việt Nam cần chủ động tham gia, thậm chí đăng cai các diễn đàn, sáng kiến quốc tế lớn về đại dương, đồng thời tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương có biển để cùng chia sẻ tri thức, nguồn lực và cơ hội phát triển.
Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam kiến nghị sớm hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế giám sát và huy động nguồn lực tài chính xanh cho phát triển bền vững biển; ưu tiên đầu tư cho hạ tầng dữ liệu không gian biển số hóa, liên thông, thông minh; xây dựng cơ chế ngoại giao chuyên trách về biển; thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học biển gắn với phát triển kinh tế biển xanh; khuyến khích các địa phương ven biển triển khai mô hình quản lý tổng hợp phù hợp đặc thù vùng.
Những nhóm nhiệm vụ trên không chỉ góp phần bảo vệ chủ quyền, hiện thực hóa khát vọng xây dựng quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, mà còn hướng tới một tương lai xanh, thịnh vượng và bền vững cho đất nước, nơi Việt Nam khẳng định vị thế quốc gia biển có trách nhiệm và tầm ảnh hưởng trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.














