| Hotline: 0983.970.780

Hoàn thiện thể chế quản trị tài nguyên địa chất hiện đại

Thứ Hai 10/11/2025 , 08:01 (GMT+7)

Tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW đang được thể chế hóa trong triển khai Luật Địa chất và Khoáng sản 2024, hướng tới quản trị tài nguyên minh bạch, hiệu quả và phát triển bền vững.

Đây không chỉ là bước tiến trong đổi mới tư duy quản lý nhà nước, mà còn là nền tảng để ngành địa chất và khoáng sản chuyển mình sang giai đoạn phát triển dựa trên tri thức, công nghệ và trách nhiệm xã hội.

Theo TS. Trần Bình Trọng, Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Luật Địa chất và Khoáng sản đánh dấu bước phát triển từ 'quản lý hành chính khai thác' sang 'quản trị tổng hợp tài nguyên địa chất'. Ảnh: Mai Đan.

Theo TS. Trần Bình Trọng, Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Luật Địa chất và Khoáng sản đánh dấu bước phát triển từ “quản lý hành chính khai thác” sang “quản trị tổng hợp tài nguyên địa chất”. Ảnh: Mai Đan.

Xoay quanh nội dung này, phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trò chuyện với TS. Trần Bình Trọng, Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về vai trò của pháp luật, thể chế trong việc định hướng và điều tiết khai thác khoáng sản bền vững tại Việt Nam?

Pháp luật và thể chế luôn là trụ cột trong quản trị tài nguyên. Trước khi có khung pháp lý hoàn chỉnh, hoạt động địa chất và khoáng sản chủ yếu dựa vào kế hoạch Nhà nước, thiếu cơ chế kiểm soát, nên hiệu quả còn hạn chế. Sự ra đời của Pháp lệnh Tài nguyên khoáng sản 1989, tiếp đó là các Luật Khoáng sản 1996, 2010, và nay là Luật Địa chất và Khoáng sản 2024, đánh dấu bước phát triển từ “quản lý hành chính khai thác” sang “quản trị tổng hợp tài nguyên địa chất”.

Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 không chỉ xác định địa chất là nguồn lực phát triển mà còn là thành tố của an ninh tài nguyên quốc gia. Đặc biệt, Nghị quyết 66.4/2025/NQ-CP của Chính phủ về việc ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 đã tạo cơ chế linh hoạt để tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật, bảo đảm các dự án địa chất và khoáng sản không bị gián đoạn, vừa tuân thủ pháp luật, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Theo ông, đâu là điểm đột phá thể chế nổi bật nhất của Luật Địa chất và Khoáng sản 2024?

Điểm đột phá lớn nhất là tư duy chuyển từ “khai thác tài nguyên” sang “quản trị tài nguyên”. Luật đã thiết lập ba tầng quản trị gồm: điều tra cơ bản địa chất làm nền tảng; khai thác - chế biến phải gắn với hiệu quả, tuần hoàn và phục hồi môi trường; xây dựng cơ sở dữ liệu số, công khai, minh bạch để mọi quyết định quản lý dựa trên dữ liệu và bằng chứng khoa học.

Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam hiện đang hoàn thiện Chiến lược điều tra cơ bản địa chất quốc gia đến năm 2045 và Cơ sở dữ liệu địa chất - khoáng sản quốc gia, làm nền cho quản trị hiện đại, minh bạch và bền vững.

Bộ TN-MT (nay là Bộ NN-MT), Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (nay là Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) kiểm tra thực địa Đề án bauxit laterit miền Nam Việt Nam. Ảnh: Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ.

Bộ TN-MT (nay là Bộ NN-MT), Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (nay là Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) kiểm tra thực địa Đề án bauxit laterit miền Nam Việt Nam. Ảnh: Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ.

Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật có ý nghĩa như thế nào với lĩnh vực địa chất và khoáng sản, thưa ông?

Nghị quyết 66-NQ/TW đặt ra yêu cầu đổi mới toàn diện từ khâu xây dựng chính sách đến tổ chức thực thi. Với lĩnh vực địa chất và khoáng sản, điều này có nghĩa là pháp luật không chỉ đúng mà còn phải “sống được” trong thực tiễn.

Chúng tôi xác định rõ, mọi quy định phải khả thi, minh bạch, giảm tối đa thủ tục, tăng trách nhiệm giải trình. Tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW đã và đang được thể chế hóa qua các nghị định, thông tư hướng dẫn Luật Địa chất và Khoáng sản 2024, đảm bảo vừa kiểm soát chặt chẽ tài nguyên, vừa thúc đẩy phát triển.

Việc số hóa dữ liệu và minh bạch thông tin đang được triển khai ra sao, thưa ông?

Chuyển đổi số là xu thế không thể đảo ngược. Ngành đã triển khai nền tảng dữ liệu địa chất – khoáng sản quốc gia, cho phép quản lý toàn bộ dữ liệu điều tra, thăm dò, cấp phép, giám sát khai thác theo thời gian thực.

Song song đó, Cục đang phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai cổng thông tin khai thác – cấp phép khoáng sản công khai, giúp địa phương, doanh nghiệp và người dân có thể tra cứu minh bạch. Đây là cách chúng ta hiện thực hóa Nghị quyết 66-NQ/TW, đưa pháp luật đến gần người dân, và xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, bình đẳng.

Một trong những vấn đề được quan tâm là phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương trong quản lý khoáng sản. Theo ông, cần cơ chế gì để việc phân cấp thực sự hiệu quả?

Luật Địa chất và Khoáng sản trao quyền mạnh hơn cho địa phương trong cấp phép, giám sát, xử lý vi phạm, nhưng đi kèm là yêu cầu tăng cường công cụ kiểm soát và phối hợp dọc - ngang. Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thông qua Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, sẽ đảm nhiệm vai trò điều phối, kiểm tra định kỳ, đồng thời cung cấp bộ chỉ số giám sát khai thác bền vững cho các tỉnh.

Cục cũng đề xuất áp dụng công nghệ viễn thám, cảm biến giám sát mỏ, nhật ký khai thác điện tử, giúp kiểm soát khai thác theo thời gian thực, hạn chế thất thoát tài nguyên.

Hiện Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đang được sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu mới. Theo ông, những chính sách nào cần được bổ sung để hệ thống pháp luật thực sự trở thành “đòn bẩy thể chế” cho phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn?

Tôi cho rằng có ba nhóm chính sách cần được tiếp tục hoàn thiện. Một là, bổ sung cơ chế khuyến khích chế biến sâu, tái chế và tận thu khoáng sản phụ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên.

Hai là, hoàn thiện công cụ kinh tế - tài chính trong quản lý, như tiền cấp quyền, quỹ phục hồi môi trường, tín chỉ carbon trong khai thác mỏ.

Ba là, xây dựng cơ chế dữ liệu mở, chia sẻ thông tin giữa Trung ương - địa phương - doanh nghiệp - người dân, giúp tăng giám sát xã hội.

Tất cả hướng đến mục tiêu “khai thác hợp lý - sử dụng tiết kiệm - phát triển bền vững”, gắn liền với kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh.

Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ khoan đánh giá tiềm năng sa khoáng titan-zircon trong tầng cát đỏ. Ảnh: Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ.

Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ khoan đánh giá tiềm năng sa khoáng titan-zircon trong tầng cát đỏ. Ảnh: Liên đoàn Địa chất Trung Trung Bộ.

Ông có thể chia sẻ thông điệp của mình nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Ngành Nông nghiệp và Môi trường?

Tám mươi năm qua, ngành địa chất và khoáng sản đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Hôm nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ mới - thời kỳ quản trị tài nguyên bằng tri thức, công nghệ và trách nhiệm.

Tôi mong mỗi cán bộ, kỹ sư, nhà khoa học địa chất tiếp tục giữ vững tinh thần “đi trước mở đường”, không ngừng đổi mới, dấn thân, để ngành địa chất và khoáng sản Việt Nam xứng đáng là nền tảng tri thức của quốc gia xanh, hiện đại và bền vững.

Trân trọng cảm ơn ông!

"Ngành địa chất và khoáng sản đang chuyển mình mạnh mẽ từ quản lý hành chính sang quản trị tài nguyên hiện đại, dựa trên dữ liệu, công nghệ và trách nhiệm xã hội. Chúng tôi coi tri thức địa chất là nền tảng cho phát triển xanh, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, phục hồi bền vững tài nguyên, vì mục tiêu tăng trưởng xanh và an ninh tài nguyên quốc gia”, TS. Trần Bình Trọng, Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết.

(thực hiện)

Xem thêm
Tài nguyên nước: Từ quản lý hành chính đến kiến tạo phát triển xanh

Tài nguyên nước đang chuyển mạnh từ quản lý hành chính sang quản trị hiện đại, số hóa và bền vững, lấy công nghệ, dữ liệu, xã hội hóa làm trụ cột phát triển xanh.

Hợp tác khoa học và công nghệ biển - động lực phát triển kinh tế xanh

Quản lý tổng hợp là 'chìa khóa' để biến tiềm năng to lớn của biển thành động lực phát triển đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng và phát triển xanh, bền vững.