| Hotline: 0983.970.780

Tìm kiếm tài nguyên cho tương lai

Thứ Hai 10/11/2025 , 11:20 (GMT+7)

Trong khoảng một thập kỷ qua, nhiều tài nguyên, địa chất khoáng sản được phát hiện tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp, kinh tế xã hội đất nước.

Những khoáng sản có trữ lượng hàng đầu thế giới

Titan, bauxite được phát hiện đã ghi dấu ấn lớn khi dự kiến trữ lượng vào hàng đầu thế giới, mở ra tiềm năng lớn cho Việt Nam. 

Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết việc phát hiện quặng titan trong tầng cát đỏ có quy mô lớn vào năm 2014 là một dấu ấn nổi bật. Cụ thể, các nhà địa chất đã phát hiện quặng titan-zircon trong tầng cát đỏ khu vực: Ninh Thuận, Bình Thuận và Bắc Bà Rịa - Vũng Tàu đạt hàm lượng công nghiệp. Kết quả điều tra, đánh giá đã xác định được tài nguyên 557 triệu tấn quặng tinh, đưa Việt Nam trở thành nước có tài nguyên quặng titan hàng đầu trên thế giới.

Cán bộ địa chất của Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam đãi trọng sa tại Đề án khoáng sản Trung Trung bộ năm 2022. Ảnh: Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam.

Cán bộ địa chất của Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam đãi trọng sa tại Đề án khoáng sản Trung Trung bộ năm 2022. Ảnh: Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam.

Một khoáng sản có trữ lượng lớn khác là quặng bauxit Nam Việt Nam được phát hiện với quy mô lớn vào năm 2017. Kết quả điều tra, đánh giá quặng bauxit trên diện tích các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Nông, Lâm Đồng, Bình Phước (trước đây) đã tổng hợp, xác định được trữ lượng và tài nguyên đạt hơn 3,5 tỷ tấn quặng tinh (trong đó, điều tra phát hiện mới 1,8 tỷ tấn), góp phần đưa Việt Nam trở thành nước có trữ lượng bauxit lớn của thế giới.

Những khoáng sản chiến lược

Từ những năm đầu của thế kỷ 21, đất hiếm giữ vai trò chiến lược trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng, mới nổi như công nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi năng lượng và công nghiệp quốc phòng với nhu cầu sử dụng ngày càng gia tăng. Đến nay, đất hiếm đóng vai trò không thể thay thế trong nhiều ngành công nghiệp chiến lược, nhất là công nghiệp quốc phòng, năng lượng tái tạo.

Ở nước ta, quặng đất hiếm được phát hiện gồm 2 loại: quặng gốc và quặng phong hóa. Quặng gốc được phát hiện và thăm dò từ những năm 60 của thế kỷ trước, phân bố tập trung ở Lai Châu, Lào Cai, quy mô khá lớn, thuộc vào một trong những nước có tài nguyên lớn của thế giới. Tuy nhiên, mức độ khai thác, chế biến, sử dụng ở nước ta chưa đáng kể do nhu cầu chưa nhiều và chưa có công nghệ chế biến.

Năm 2024, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã thực hiện đánh giá quặng đất hiếm trong vỏ phong hóa. Kết quả điều tra, đánh giá quặng đất hiếm kiểu hấp phụ ion trong vỏ phong hóa một số thành tạo đá magma đã cho thấy nước ta có tiềm năng lớn về loại quặng này. Kết quả này là cơ sở để triển khai đề án đánh giá tổng thể tài nguyên quặng đất hiếm nhằm đánh giá đầy đủ tiềm năng, triển vọng quặng đất hiếm của nước ta.

Lãnh đạo Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam kiểm tra và chỉ đạo công tác thi công thực địa đề án khoáng sản chiến lược tại vùng Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An (năm 2025). Ảnh: Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ.

Lãnh đạo Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam kiểm tra và chỉ đạo công tác thi công thực địa đề án khoáng sản chiến lược tại vùng Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An (năm 2025). Ảnh: Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ.

Bên cạnh đó, năm 2009, các nhà địa chất đã phát hiện quặng Liti (quặng kim loại hiếm) ở vùng La Vi, Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Sau đó, mỏ đã được thăm dò (2024), trữ lượng và tài nguyên xác định được khoảng 6.600 tấn LiO₂. Khoáng sản đi kèm có giá trị cao là Berili, trữ lượng và tài nguyên khoảng 550 tấn BeO. Đây là mỏ kim loại hiếm Liti đầu tiên được phát hiện và đánh giá, thăm dò trữ lượng và tài nguyên ở nước ta, mở ra triển vọng tiếp tục phát hiện các mỏ tương tự trong khu vực và toàn quốc.

Những mỏ quặng mới

Năm 2016, việc đánh giá tài nguyên than nâu vùng đồng bằng sông Hồng  trên diện tích 265 km2 vùng Đông Hưng, Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) đã xác định được tài nguyên than nâu là 6,7 tỷ tấn, phân bố ở độ sâu từ 300m đến 1.200m. Đây là lần đầu tiên, than nâu vùng đồng bằng sông Hồng được đánh giá xác định tài nguyên. Đồng thời, kết quả điều tra cũng đã xác lập được các thông số địa chất cơ bản phục vụ công nghệ khí hóa than ngầm. Kết quả này là cơ sở xác nhận dự báo khoảng 200 tỉ tấn than nâu phân bố ở các tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng trước đây.

Năm 2019, ngành địa chất và khoáng sản phát hiện điểm quặng đồng Kon Rá, Kon Tum. Phát hiện này đã được vinh danh trong 10 sự kiện tiêu biểu ngành Tài nguyên và Môi trường năm 2019. Kết quả điều tra, đánh giá (2024) đã sơ bộ xác định được tài nguyên hơn 150.000 tấn đồng kim loại. Đây là lần đầu tiên phát hiện mỏ quặng đồng có quy mô lớn ở khối cấu trúc Kon Tum, mở ra triển vọng tiếp tục điều tra, phát hiện các mỏ đồng trong khu vực.

Ngoài ra, năm 2023, công tác điều tra, đánh giá tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng đã xác định được tài nguyên cát trắng tại khu vực 3 tỉnh đã được điều tra, đánh giá khoảng 10,8 tỉ tấn. Kết quả này cho thấy, Việt Nam có tiềm năng cát trắng rất lớn và chất lượng tốt.

Đánh giá toàn diện bức tranh tài nguyên Tây Bắc

Đề án "Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế xã hội" hoàn thành năm 2024 đã thu được những kết quả đáng khích lệ.

Cụ thể, Đề án đã hoàn thành điều tra, lập bản đồ địa chất, khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 trên tổng diện tích 13.081 km², góp phần cơ bản phủ kín nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc, làm rõ hơn cấu trúc địa chất và lịch sử phát triển địa chất của vùng, đã phát hiện nhiều điểm biểu hiện khoáng sản và khoanh định được nhiều khu vực có triển vọng khoáng sản, nhiều điểm, khu vực có tài nguyên địa chất khác để chuyển giao điều tra, đánh giá xác định tài nguyên. Kết quả này đã góp phần cơ bản hoàn thành nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc, là cơ sở khoa học cho các ngành, địa phương trong việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Từ đề án này, chúng ta đã phát hiện, điều tra, đánh giá tài nguyên 110 mỏ thuộc 25 loại khoáng sản (mục tiêu được giao từ 30 đến 35 mỏ mới). Trong số đó có 17 mỏ lớn (5 mỏ khoáng sản kim loại, 10 mỏ khoáng chất công nghiệp, 2 mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng), 43 mỏ trung bình và 50 mỏ nhỏ.

Các khoáng sản được phát hiện, điều tra, đánh giá gồm: nhóm khoáng sản nhiên liệu, năng lượng: than đá, địa nhiệt; nhóm kim loại: sắt - mangan, bauxit, đất hiếm, đồng - nickel, thiếc - wofram, vàng, antimon; khoáng chất công nghiệp: apatit, graphit, talc, kaolin, felspat, barit, dolomit, thạch anh, quarzit, đá vôi công nghiệp; khoáng sản làm vật liệu xây dựng: đá vôi ốp lát, đá mỹ nghệ, đá phiến lợp. Trong đó, đã khoanh định 96 mỏ, khu mỏ đề xuất đưa vào thăm dò tiếp theo. Đây là nguồn nguyên liệu khoáng đáng kể, quan trọng cung cấp cho các ngành, các địa phương trong việc quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.

Từ kết quả điều tra, đã khoanh định 30 khu vực có tiền đề, dấu hiệu triển vọng thuộc 10 loại khoáng sản để tiếp tục điều tra, phát hiện mỏ mới. Đồng thời đã hoàn thành và bàn giao một số sản phẩm cho 14 tỉnh vùng Tây Bắc gồm: bộ mẫu vật địa chất, khoáng sản điển hình, bản đồ địa chất, khoáng sản tỉ lệ 1/250.000, sổ mỏ, điểm quặng, góp phần quan trọng giúp các tỉnh trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản và đất đai.

Nhà địa chất kiểm tra thực địa quặng Niken ở Hà Giang. Ảnh: Mai Anh.

Nhà địa chất kiểm tra thực địa quặng Niken ở Hà Giang. Ảnh: Mai Anh.

Kết quả thực hiện đề án tạo tiền đề cho những nhiệm vụ tiếp theo về công tác điều tra địa chất và tìm kiếm, đánh giá các khu vực có triển vọng khoáng sản, nhất là khoáng sản ẩn sâu ở vùng Tây Bắc nói riêng và các khu vực khác (Đông Bắc, Trung Bộ, Tây Nguyên) nói chung.

Công tác điều tra, đánh giá khoáng sản được bắt đầu thực hiện từ sau năm 1955. Tính đến nay, đã phát hiện và điều tra, đánh giá trên 5.000 mỏ và điểm quặng trên toàn lãnh thổ với hơn 50 loại khoáng sản (trừ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường), bao gồm: than, urani, titan, bauxit, sắt, mangan, thiếc, wonfram, đồng, nickel, chì-kẽm, đất hiếm, cát trắng, đá hoa trắng, đá ốp lát, đá vôi xi măng, nước khoáng nóng…

Xem thêm
Đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên nước

Việt Nam đang chứng kiến chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy, thể chế quản lý tài nguyên nước, hướng tới quản lý tổng hợp, thống nhất, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia.

Hợp tác khoa học và công nghệ biển - động lực phát triển kinh tế xanh

Quản lý tổng hợp là 'chìa khóa' để biến tiềm năng to lớn của biển thành động lực phát triển đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng và phát triển xanh, bền vững.