Thể chế hóa quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Từ khi Luật Tài nguyên nước đầu tiên được ban hành năm 1998, Việt Nam chính thức có cơ sở pháp lý để quản lý tổng hợp nguồn nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa công tác quản lý tài nguyên nước. Các quan điểm, đường lối của Đảng và chiến lược phát triển quốc gia liên quan đến nước đã được thể chế hóa, từng bước tiếp cận mô hình quản trị tiên tiến của thế giới.
Đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước đã tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý trong bối cảnh phát triển mới, đặc biệt là chuyển đổi số quốc gia.
Đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước đã tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý trong bối cảnh phát triển mới. Ảnh: Minh Anh.
Sự ra đời của Luật Tài nguyên nước năm 2023 - phiên bản thứ ba sau các Luật năm 1998 và 2012 đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, đặt trọng tâm vào quản lý tổng hợp theo lưu vực sông, gắn kết chặt chẽ với quản lý theo địa giới hành chính. Luật quy định rõ trách nhiệm phân công giữa các cấp, các ngành trong quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước, đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả.
Quan trọng hơn, Luật đã nhấn mạnh nguyên tắc điều hòa, phân bổ tài nguyên nước công bằng và hợp lý, dựa trên quy hoạch tài nguyên nước và khả năng đáp ứng của từng nguồn nước. Đây là công cụ cốt lõi giúp quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên nước, đồng thời hài hòa lợi ích giữa các địa phương, ngành kinh tế và môi trường sinh thái.
Xây dựng hệ thống quy hoạch tài nguyên nước mang tầm chiến lược
Bám sát tinh thần của Luật 2023, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai mạnh mẽ công tác quy hoạch tài nguyên nước, coi đây là nền tảng quan trọng để đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia.
Đến nay, Bộ đã trình Chính phủ ban hành 10/15 quy hoạch, gồm: Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, 8 quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh và Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước. Hiện 5 quy hoạch lưu vực sông Ba, Cả, Trà Khúc, Vu Gia - Thu Bồn, Côn - Hà Thanh đang tiếp tục được xây dựng, dự kiến hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ trong giai đoạn 2025-2026.
Quy hoạch tài nguyên nước hướng tới bảo đảm an ninh nguồn nước, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước công bằng, khai thác tiết kiệm, gắn với bảo vệ và phát triển bền vững. Ảnh: Minh Anh.
Trong quá trình xây dựng các quy hoạch, Cục Quản lý tài nguyên nước đã tham khảo kinh nghiệm của nhiều quốc gia như Úc, Mỹ, Hà Lan, Nam Phi, Trung Quốc, Brazil… Những nước này đều trải qua ba giai đoạn phát triển: từ quy hoạch sơ khai kỹ thuật, đến quy hoạch đa ngành và giai đoạn chiến lược tích hợp. Việt Nam hiện đang bước vào giai đoạn 3, giai đoạn chiến lược, quy hoạch định hướng dài hạn về tài nguyên nước, thể hiện bước tiến vượt bậc trong tư duy quản lý.
Mục tiêu chung của các quy hoạch là bảo đảm an ninh nguồn nước, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước công bằng, khai thác tiết kiệm, gắn với bảo vệ và phát triển bền vững. Các quy hoạch này không chỉ là cơ sở kỹ thuật cho các ngành sử dụng nước mà còn là căn cứ để hoạch định đầu tư, ra quyết định điều hòa nguồn nước và ứng phó biến đổi khí hậu.
Triển khai đồng bộ, giám sát chặt chẽ và ứng dụng công nghệ số
Ngay sau khi các quy hoạch được phê duyệt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, quy định rõ trách nhiệm thực hiện của các bộ, ngành và chính quyền các cấp. Sau hơn ba năm triển khai, nhiều kết quả quan trọng đã được ghi nhận.
Trước hết, thể chế và chính sách về khai thác, sử dụng, tái sử dụng tài nguyên nước tiếp tục được hoàn thiện; cơ chế tài chính, thu hút đầu tư vào lĩnh vực nước được mở rộng. Hệ thống thông tin, mô hình số và bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định được phát triển, giúp đánh giá nguồn nước trong các điều kiện khác nhau, phục vụ điều hòa, phân phối kịp thời và hiệu quả.
Hiện nay, 100% hồ chứa thủy điện lớn, quan trọng trên toàn quốc đã được kết nối, giám sát trực tuyến; hơn 850 công trình cấp Bộ cấp phép và hàng nghìn công trình địa phương cũng được theo dõi qua hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Bộ đã công bố dòng chảy tối thiểu hạ lưu của 725 hồ chứa và đập dâng thuộc 644 công trình thủy lợi, thủy điện, đảm bảo duy trì dòng chảy sinh thái, cân bằng giữa khai thác và bảo vệ môi trường nước.
Công tác điều chỉnh quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa được thực hiện thường xuyên, hướng tới vận hành theo thời gian thực để tối ưu hóa việc điều tiết nước cho sản xuất, dân sinh và phòng chống thiên tai. Song song, nhiều chương trình phục hồi nguồn nước suy thoái, ô nhiễm, cải thiện môi trường nước tại các lưu vực sông lớn như Hồng, Đồng Nai, Cửu Long đã được triển khai hiệu quả.
Đặc biệt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công bố kịch bản nguồn nước cho 8 lưu vực sông lớn, bao gồm: Bằng Giang - Kỳ Cùng, Hồng - Thái Bình, Sê San, Srepok, Cửu Long, Đồng Nai, Hương và Mã. Các kịch bản này là căn cứ khoa học quan trọng phục vụ điều hòa, phân bổ nguồn nước giữa các ngành và địa phương, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sinh kế người dân.
Hướng tới quản trị nguồn nước bền vững trong kỷ nguyên số
Cùng với việc hoàn thiện thể chế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý tài nguyên nước, từng bước xây dựng hệ thống quản trị thông minh. Việc áp dụng công nghệ viễn thám, dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) cho phép giám sát tự động chất lượng và trữ lượng nước, dự báo sớm hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt và sụt giảm mực nước ngầm.
Song hành với đó là các giải pháp thúc đẩy tuần hoàn nước, tái sử dụng nước thải, thu gom và lưu trữ nước mưa, góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đô thị hóa nhanh chóng. Việc quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông không chỉ là yêu cầu pháp lý, mà còn là chìa khóa để bảo đảm cân bằng sinh thái và phát triển xanh.
Từ các bước đi chiến lược, lĩnh vực tài nguyên nước Việt Nam đã và đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng quản trị tổng hợp, khai thác bền vững. Đây là minh chứng cho quyết tâm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong việc khẳng định vai trò trung tâm của tài nguyên nước trong bảo đảm an ninh, ổn định và thịnh vượng quốc gia.















