Thế giới định hình thị trường các-bon, Việt Nam tăng tốc
Trong khi các quốc gia đẩy mạnh hành động khí hậu để thực hiện Thỏa thuận Paris và mục tiêu phát thải ròng bằng “0”, thị trường tín chỉ các-bon đang trở thành công cụ kinh tế hiệu quả giúp giảm phát thải khí nhà kính dựa trên cơ chế thị trường.
Theo TS. Thái Thị Thanh Minh, Phó trưởng Bộ môn Biến đổi khí hậu và Phát triển bền vững, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, với Việt Nam, việc tham gia Thỏa thuận Paris (2016) và cam kết Net Zero vào năm 2050 đặt ra yêu cầu cấp thiết phải hình thành một thị trường các-bon hoàn chỉnh, minh bạch và tiệm cận chuẩn mực quốc tế.
Sơ đồ chu trình tạo tín chỉ các-bon và cơ chế kiểm soát khí nhà kính. Ảnh: Dreamstime.
TS. Minh cho hay, trên thế giới, hệ thống giao dịch phát thải khí nhà kính được triển khai rộng rãi tại nhiều khu vực, trong đó nổi bật là Liên minh châu Âu (EU ETS), Hàn Quốc, New Zealand hay một số bang tại Mỹ. Các hệ thống này đều vận hành theo nguyên tắc: thiết lập hạn ngạch phát thải, cấp phát thông qua đấu giá và cho phép doanh nghiệp giao dịch tín chỉ để đáp ứng nghĩa vụ giảm phát thải.
Xu hướng chung là giảm dần lượng phân bổ miễn phí và tăng tỷ trọng hạn ngạch được đấu giá, qua đó tạo động lực giảm phát thải mạnh hơn. Đồng thời, các quốc gia đều yêu cầu giám sát chặt chẽ sàn giao dịch, minh bạch hóa quy trình đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV) và bảo đảm toàn vẹn tín chỉ nhằm tránh rủi ro gian lận, tính toán kép hay phát hành tín chỉ kém chất lượng.
Chuyên gia của Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho rằng, tại Việt Nam, thị trường tín chỉ các-bon đang ở giai đoạn chuẩn bị và thử nghiệm. Nghị định 06/2022/NĐ-CP và các văn bản liên quan mới tạo dựng khung sườn tổng thể, song chưa có đủ quy định chi tiết cho vận hành thị trường. Các nội dung quan trọng như cơ chế giao dịch, thanh toán, giải quyết tranh chấp hay quy định về định giá tín chỉ trong nước chưa chi tiết, dẫn đến thiếu sự chắc chắn cho doanh nghiệp và nhà đầu tư tham gia.
Một vướng mắc lớn khác là vấn đề quyền sở hữu tín chỉ các-bon từ rừng (REDD+) và các dự án hấp thụ các-bon. Sự chưa rõ ràng trong phân định quyền giữa Nhà nước, chủ rừng/chủ dự án và bên mua, gây khó khăn cho việc ký kết các hợp đồng dài hạn.
Mô hình trồng rau trong nhà lưới giúp giảm sử dụng phân bón hóa học và hạn chế phát thải, góp phần tạo nguồn tín chỉ các-bon từ nông nghiệp. Ảnh: Trung Hiếu.
Hơn nữa, chất lượng dữ liệu phát thải tại doanh nghiệp còn chưa thống nhất; năng lực của các tổ chức thẩm định trong nước chưa đáp ứng chuẩn quốc tế; cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ MRV và đăng ký giao dịch vẫn đang hoàn thiện. Những hạn chế này nếu không được xử lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực vận hành thị trường sau năm 2028, thời điểm Việt Nam dự kiến triển khai giao dịch chính thức theo lộ trình của Chính phủ.
Thúc đẩy thị trường tín chỉ các-bon bằng cải cách pháp lý
Theo đề xuất của TS. Thái Thị Thanh Minh, để thị trường tín chỉ các-bon vận hành hiệu quả, Việt Nam cần ưu tiên xây dựng cơ chế pháp lý đầy đủ, đồng bộ và minh bạch, với ba nhóm giải pháp trọng tâm.
Trước hết, thống nhất cơ quan quản lý thị trường các-bon quốc gia. Cần có một đầu mối quản lý thống nhất, phối hợp liên ngành giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý Sổ đăng ký tín chỉ các-bon quốc gia, giám sát sàn giao dịch và bảo đảm xuyên suốt quy trình vận hành. Sàn giao dịch tín chỉ nên được thiết kế như một tổ chức công độc lập để bảo đảm khách quan, minh bạch.
TS. Thái Thị Thanh Minh kiến nghị khung pháp lý cho thị trường tín chỉ các-bon Việt Nam. Ảnh: Mai Đan.
Tiếp đó, tăng cường tính minh bạch và toàn vẹn của thị trường. Các nguyên tắc quốc tế, đặc biệt là tránh tính toán kép, cần được đưa vào văn bản pháp lý. Đồng thời, phải phân định rõ ràng giữa thị trường tuân thủ và thị trường tự nguyện, tránh chồng lấn, tạo cơ sở cho doanh nghiệp lựa chọn phương án tham gia phù hợp. Một khung pháp lý minh bạch cũng là điều kiện để thu hút tín chỉ quốc tế, thương mại hóa tín chỉ từ rừng và tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp khi tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu có yêu cầu về phát thải thấp.
Bên cạnh đó, tăng liên kết giữa thị trường các-bon và các công cụ tài chính xanh. Tín chỉ các-bon cần được xem như tài sản tài chính có giá trị, có thể gắn với tín dụng xanh, trái phiếu xanh hoặc các công cụ tài chính bền vững khác. Việc kết nối này giúp huy động nguồn lực xã hội cho giảm phát thải, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp có thêm kênh tài chính để đổi mới công nghệ và chuyển đổi mô hình sản xuất xanh.
Ngoài ba nhóm giải pháp chính, Việt Nam cần sớm hoàn thiện Nghị định chuyên biệt về thị trường các-bon; chuẩn hóa hệ thống MRV; nâng cao năng lực cho các tổ chức thẩm định và hệ thống kỹ thuật; đầu tư cơ sở dữ liệu quốc gia về phát thải, hấp thụ các-bon; đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích tài chính để doanh nghiệp tích cực tham gia.
“Việc hoàn thiện khung pháp lý không chỉ giúp thị trường tín chỉ các-bon vận hành thông suốt, minh bạch mà còn là chìa khóa đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050, củng cố vị thế trong chuỗi cung ứng xanh toàn cầu và phát triển kinh tế theo hướng bền vững”, TS. Thái Thị Thanh Minh nhấn mạnh.











![Đà Nẵng: Kiên định mục tiêu thành phố môi trường: [Bài 3]Nỗ lực giữ thương hiệu](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/content/2025/11/24/rac-134216_264-153422-091234_511-145339.jpg)















