Ở một vùng mà hơn 72% dân số sống ở nông thôn, mọi mô hình, chính sách, công nghệ chuyển đổi xanh, bền vững chỉ phát huy hiệu quả khi thực sự khiến nông dân thay đổi cách nghĩ, cách làm.
Thực hành kinh tế tuần hoàn với mô hình lúa - tôm
Những năm gần đây, nông dân ĐBSCL đã mạnh dạn chuyển sang mô hình canh tác hữu cơ, giảm phụ thuộc phân bón hóa học, sử dụng chế phẩm sinh học và tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón, thức ăn chăn nuôi hoặc năng lượng sinh khối. Các mô hình lúa - tôm, lúa - cá, tôm - rừng, VAC mở rộng hay chăn nuôi an toàn sinh học giúp tiết kiệm chi phí, giảm phát thải và tăng thu nhập.
Mô hình tôm - lúa trong thực hành kinh tế tuần hoàn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: Trọng Linh.
Theo nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Hồng Quân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tuần hoàn và cộng sự, tại khu vực Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre (cũ), mô hình lúa - tôm truyền thống đang bộc lộ hàng loạt hạn chế nghiêm trọng. Việc đốt rơm rạ sau thu hoạch gây lãng phí tài nguyên và phát thải khí nhà kính; bùn thải từ ao tôm không được xử lý làm ô nhiễm môi trường; trong khi sản xuất vẫn phụ thuộc nặng nề vào phân bón và thuốc hóa học, khiến đất đai suy thoái, năng suất bấp bênh và hiệu quả kinh tế ngày càng thấp. Mô hình không còn đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu thị trường ngày càng khắt khe.
Từ thực trạng đó, nhóm nghiên cứu đã xây dựng quy trình thực hành kinh tế tuần hoàn với “Sổ tay hướng dẫn mô hình lúa - tôm - so đũa tuần hoàn”. Sổ tay giới thiệu quy trình canh tác được xây dựng với kỹ thuật đồng bộ, giúp khép kín hoàn toàn vòng lặp dinh dưỡng và năng lượng ngay tại trang trại. Hạt nhân của mô hình là ba nhóm kỹ thuật cốt lõi: tái chế 100% rơm rạ và bùn thải thành phân compost hữu cơ tại chỗ; canh tác lúa giảm phát thải, không sử dụng hóa chất; nuôi tôm sinh thái, không kháng sinh, dựa vào hệ sinh thái tự nhiên.
Nhờ áp dụng các kỹ thuật tuần hoàn, hiệu quả kinh tế tăng vượt trội với lợi nhuận ròng cao hơn 3,6 lần, năng suất lúa tăng 21,5%, năng suất tôm tăng 46,7% so với mô hình truyền thống.
Ông Lê Hòa Bình ở xã Thạnh Hải, tỉnh Vĩnh Long thực hành kinh tế tuần hoàn với mô hình tôm lúa. Ảnh: Minh Đảm.
Không chỉ cải thiện thu nhập, mô hình còn tạo ra những giá trị môi trường rõ rệt. Trên 95% rơm rạ và bùn thải được tái sử dụng, giúp cải thiện cấu trúc đất, tăng độ tơi xốp, phục hồi hệ sinh vật đất như giun, cá đồng; chất lượng nước ao - ruộng ổn định hơn, hệ chim cò và sinh vật bản địa cũng quay trở lại. Cảnh quan sinh thái được tái tạo một cách tự nhiên và bền vững.
Về mặt xã hội, mô hình góp phần nâng cao tri thức và năng lực của nông dân, đặc biệt là phụ nữ - những người trực tiếp tham gia canh tác và xử lý phụ phẩm. Việc giảm mạnh tiếp xúc với phân thuốc hóa học giúp cải thiện sức khỏe, giảm rủi ro nghề nghiệp; đồng thời tạo điều kiện để phụ nữ tự tin hơn, tham gia quyết định kỹ thuật và khẳng định vai trò lãnh đạo nhỏ trong cộng đồng sản xuất.
Năm 2024, được sự hỗ trợ của các chuyênn gia từ Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tuần hoàn (ICED), ông Lê Hòa Bình (xã Thạnh Hải, tỉnh Vĩnh Long) triển khai mô hình lúa - tôm tuần hoàn trên 2 ha. Ông vừa sạ lúa vừa thả tôm càng xanh toàn đực, tận dụng phụ phẩm lúa làm thức ăn tự nhiên như gốc rạ, lúa đổ, sên, ốc... Bên cạnh đó, ông còn xay lúa làm thức ăn bổ sung thêm cho tôm, hạn chế tối đa thức ăn công nghiệp. Rơm rạ, cỏ bờ ruộng cũng được tận dụng nuôi bò. Phân bò ủ hoai trả lại ruộng. Từ đó, tạo thành chu trình tuần hoàn khép kín. Mô hình giúp ông Bình thu nhập khoảng 150 triệu đồng/năm sau khi trừ chi phí, cao hơn nhiều so với nuôi quảng canh truyền thống.
Mô hình mới này giúp giảm chi phí đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu) và cải thiện môi trường. Nhờ việc giảm lượng phân bón hóa học và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên tự nhiên, các mô hình này còn giúp giảm thiểu lượng khí nhà kính phát thải so với các phương thức canh tác truyền thống.
Ông Ngô Minh Tuấn, chủ trang trại tôm công nghệ cao áp dụng khoa học công nghệ giúp giảm chi phí sử dụng năng lượng trong nuôi tôm. Ảnh: Minh Đảm.
Nuôi tôm giảm phát thải
Trong nuôi thủy sản, nhiều mô hình hiện đại cũng đang tạo bước chuyển mạnh. Tiêu biểu là Dự án nuôi tôm tiết kiệm năng lượng sử dụng sinh khối tại trang trại nuôi tôm công nghệ cao Tuấn Hiền (xã Tân Phú Đông, tỉnh Đồng Tháp). Bùn thải ao nuôi tôm kết hợp lá sả được xử lý lên men tạo khí mê-tan để sản xuất điện, phục vụ trở lại hệ thống nuôi. Dự án do Công ty Yuko Keiso (Nhật Bản) phối hợp triển khai từ năm 2022.
Với hệ thống điện sinh khối tự động và giám sát IoT, môi trường ao được kiểm soát chặt chẽ, mật độ nuôi lên đến 500 con/m3, tỉ lệ sống đạt trên 85%, năng suất 45-50 tấn/ha, cao gấp đôi cách làm truyền thống. Mỗi ao 1.000 m2 giảm phát thải từ 10-27 tấn CO2/năm. Theo ông Ngô Minh Tuấn, chủ trang trại cho biết, mô hình này giúp giảm chi phí, giảm rủi ro dịch bệnh, tăng chất lượng tôm và đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
Đây cũng là dự án đầu tiên ở Đồng Tháp có sự hợp tác giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm ứng dụng công nghệ xanh vào sản xuất thủy sản. Ông Nguyễn Tiến Diệt, quyền Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Đồng Tháp, cho biết dự án mang lại ba giá trị: tạo năng lượng xanh góp phần giảm phát thải khí nhà kính, xử lý phụ phẩm nông nghiệp để phát triển kinh tế tuần hoàn và giúp người dân kiểm soát môi trường ao nuôi bằng công nghệ hiện đại, giảm chi phí.
Điện năng được tạo ra từ bùn thải trong nuôi tôm được sử dụng trở lại trong sản xuất tại trại tôm. Ảnh: Minh Đảm.
Trang bị kỹ năng kiến thức cho nông dân
Tuy vậy, theo thạc sĩ Trần Thị Thúy (Học viện Chính trị khu vực IV), quá trình chuyển đổi xanh ở ĐBSCL vẫn gặp nhiều rào cản. Sản xuất nhỏ lẻ khiến nông dân khó tiếp cận vốn và khoa học công nghệ. Thu nhập còn thấp trong khi hạ tầng điện, nước, internet chưa đồng bộ. Kỹ năng số hạn chế làm nông dân khó tham gia chuỗi giá trị hiện đại, thương mại điện tử hay truy xuất nguồn gốc. Tập quán canh tác cũ vẫn tồn tại, chưa phù hợp với yêu cầu sản xuất xanh, còn thị trường tiêu thụ sản phẩm xanh chưa ổn định, giá bán chưa tương xứng chi phí sản xuất.
Để nông dân thực sự là trung tâm của chuyển đổi xanh, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Thứ nhất, tăng cường truyền thông để người dân hiểu rõ lợi ích kinh tế - môi trường. Thứ hai, đẩy mạnh đào tạo nghề, kỹ thuật canh tác bền vững và kỹ năng sử dụng thiết bị thông minh. Thứ ba, đưa nông dân vào chuỗi giá trị thông qua hợp tác xã kiểu mới. Thứ tư, xây dựng văn hóa sinh thái nông thôn với thói quen trồng cây xanh, giảm rác thải và bảo vệ nguồn nước. Trong này, nhóm yếu thế như phụ nữ, người nghèo và đồng bào dân tộc cần được ưu tiên tiếp cận tín dụng xanh, công nghệ giá rẻ và các chương trình chứng nhận VietGAP, hữu cơ.
Chuyển đổi xanh ở ĐBSCL không thể thành công nếu thiếu sự chủ động của người nông dân. Khi được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng và nguồn lực, họ sẽ trở thành động lực quan trọng thúc đẩy nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh, phù hợp tầm nhìn phát triển bền vững của vùng và cả nước.













![Đà Nẵng: Kiên định mục tiêu thành phố môi trường: [Bài 3]Nỗ lực giữ thương hiệu](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/content/2025/11/24/rac-134216_264-153422-091234_511-145339.jpg)














