Lớn mạnh nhưng chưa bền vững
EU hiện là một trong bốn thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Nhờ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), thương mại hai bên ngày càng được mở rộng. Song, cũng đồng nghĩa với việc EU áp dụng hàng loạt tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh thực phẩm, an toàn dịch bệnh, nhãn mác và đặc biệt là yêu cầu “xanh hóa” trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu tới 170 quốc gia, với kim ngạch đạt 10 tỷ USD năm 2024, tăng 12,7% so với năm trước. Trong đó, tôm, cá tra và cá ngừ là ba mặt hàng chủ lực. Riêng EU, giai đoạn 2017-2022 luôn nằm trong nhóm thị trường lớn, nhưng sức ép ngày càng gia tăng khi số cảnh báo tăng gấp đôi chỉ trong năm 2024, thẻ vàng IUU chưa được gỡ bỏ, cùng lo ngại về môi trường và phát triển bền vững.

Nhuyễn thể hai mảnh vỏ gắn với sản xuất "xanh" là mặt hàng tiềm năng xuất khẩu vào thị trường EU. Ảnh: Lê Bình.
Điều này đặt ra yêu cầu: nếu không chuyển đổi theo tiêu chuẩn xanh, thủy sản Việt có nguy cơ đánh mất lợi thế cạnh tranh ngay trên sân chơi vốn đầy tiềm năng.
Trong những năm qua, nhiều địa phương và doanh nghiệp đã bắt đầu thích ứng. Sóc Trăng dẫn đầu cả nước với hơn 1.100 ha nuôi tôm đạt chứng nhận VietGAP, ASC, GlobalGAP, BAP; nhiều doanh nghiệp nuôi tôm công nghệ cao đạt năng suất 35 tấn/ha. Cà Mau phát triển mạnh mô hình tôm - rừng, hơn 19.000 ha đã đạt chứng nhận quốc tế như Naturland, EU Organic, Selva Shrimp… Kiên Giang phê duyệt dự án phát triển bền vững 5.500 ha với tổng vốn hơn 620 tỷ đồng.
Các mô hình này không chỉ giúp đáp ứng tiêu chuẩn EU mà còn mở ra cơ hội xây dựng kinh tế tuần hoàn, tái chế phụ phẩm, giảm phát thải khí nhà kính và nâng cao giá trị thương hiệu thủy sản Việt Nam.
Những nút thắt cần tháo gỡ
Tuy có bước tiến nhưng chuyển đổi xanh vẫn vấp phải nhiều rào cản. Chỉ 8,2% cơ sở nuôi tôm nước lợ được cấp mã số nhận diện. Nhiều nhà máy, hợp tác xã chưa thực hiện nghiêm túc xử lý nước thải, chất thải. Chuỗi phân phối chủ yếu qua thương lái khiến việc kiểm soát chất lượng hạn chế, trong khi đóng gói, bảo quản còn yếu so với chuẩn EU.
Ngoài ra, khai thác quá mức và sử dụng ngư cụ cấm vẫn diễn ra, làm suy kiệt nguồn lợi thủy sản ven bờ. Năng lực quản trị của ngư dân và người nuôi còn thấp, chưa cảm nhận đầy đủ áp lực từ thị trường quốc tế. Cùng với đó, hạn chế về vốn và công nghệ khiến việc đầu tư mô hình xanh còn chậm.
Theo TS. Phan Tuấn Anh, Trung tâm Kinh tế học, Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ, để thủy sản Việt Nam thực sự chinh phục thị trường EU, cần đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, vai trò Nhà nước cần ban hành quy định, tiêu chuẩn nhất quán, sát thực tế; tăng cường kiểm tra, hỗ trợ vốn, khoa học công nghệ và đào tạo nhân lực.

Mô hình nuôi tôm sạch rộng 300ha tại khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu của TP.HCM là mô hình điểm về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Ảnh: Lê Bình.
Doanh nghiệp và các Hiệp hội cũng cần chủ động liên kết chuỗi, xây dựng hệ thống phân phối, tham gia chứng nhận quốc tế, giảm phụ thuộc thương lái. Cần đẩy mạnh tuyên truyền để ngư dân, người nuôi hiểu rõ lợi ích và cách thức chuyển đổi xanh.
“Việt Nam cũng cần tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ nuôi trồng tuần hoàn, xử lý chất thải, tái chế phụ phẩm nhằm tối ưu hóa sản xuất và đáp ứng tiêu chuẩn EU”, TS. Phan Tuấn Anh nhận định.
Thúc đẩy chuyển đổi xanh vùng cung ứng không chỉ là điều kiện để gỡ bỏ thẻ vàng IUU, đáp ứng tiêu chuẩn EU, mà còn là cách để thủy sản Việt Nam nâng cao giá trị, xây dựng thương hiệu quốc gia và phát triển bền vững.
Như khẳng định của nhiều chuyên gia, “xanh hóa” không còn là lựa chọn, mà đã trở thành con đường duy nhất để thủy sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.