Khoa học công nghệ là động lực trung tâm
Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 của Đảng bộ Cục Thủy sản và Kiểm ngư, đồng chí Phùng Đức Tiến, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ghi nhận tinh thần bền bỉ phấn đấu, hiện đại trong sản xuất, tăng tốc cho xuất khẩu và nâng tầm hội nhập mà tập thể cán bộ, đảng viên Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã duy trì, dù trong điều kiện sáp nhập tổ chức và đối mặt nhiều thách thức.
Đồng chí đánh giá cao việc không để đứt gãy hoạt động, không bỏ trống địa bàn trong tất cả các trụ cột công tác. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện tương đối đồng bộ; việc quán triệt nghị quyết của Đảng được triển khai nghiêm túc; tinh thần học tập, nhất là trong các lĩnh vực an toàn thực phẩm, thủy sản, kiểm ngư, được duy trì đều đặn, thể hiện qua các buổi làm việc trực tuyến mà lãnh đạo Bộ trực tiếp theo dõi.

Đồng chí Phùng Đức Tiến, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo tại Đại hội. Ảnh: Linh Linh.
Định hướng cho nhiệm kỳ 2026 - 2030, đồng chí yêu cầu toàn ngành cần tập trung cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Đối với ngành tôm, một trong những ngành trọng điểm của lĩnh vực thủy sản, dù sản lượng tôm đã đạt 1,29 triệu tấn với diện tích chỉ 740.000 ha, nhưng giá trị xuất khẩu vẫn dậm chân ở mức 3,9 - 4,3 tỷ USD. Một trong những nút thắt là công tác giống khi mỗi năm vẫn phải nhập tới 260.000 cặp tôm bố mẹ. Đồng chí lưu ý, làm giống tôm khó do nhiều dòng, nhưng không thể mãi phụ thuộc nước ngoài. Về hạ tầng nuôi, đồng chí chỉ rõ thực tế tại một số tỉnh như Trà Vinh vẫn chưa có điện; quy hoạch, giao thông, thủy lợi, thoát nước đều hạn chế khiến người dân nuôi tôm dễ gặp rủi ro dịch bệnh.
“Phải trăn trở từ thực tiễn, trăn trở trên chính luống cày của mình. Mô hình sinh thái, hữu cơ, an toàn sinh học đã có nhưng chưa nhân rộng được, cần tổng kết nghiêm túc để lan tỏa", đồng chí nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, thức ăn cho tôm hiện phần lớn do doanh nghiệp FDI nắm giữ, với tổng lượng được ước tính lên đến 5,9 triệu tấn mỗi năm. Đối tôm hùm, sản lượng khoảng 50.000 tấn, người nuôi vẫn dùng thủy sản băm nhỏ làm thức ăn, gây ô nhiễm môi trường. Cá tra cũng cần được xem xét lại toàn diện: những cá thể lớn tới hàng chục kg chứng tỏ tiềm năng di truyền cao, nhưng vẫn chưa có cơ chế phát tán giống hiệu quả. Các đối tượng khác như rong biển, tảo biển cần được phát triển như ngành kinh tế độc lập, phục vụ cả dược phẩm và thực phẩm. Cá rô phi cũng được yêu cầu rà soát lại toàn diện về giống, thức ăn, bệnh, môi trường… để từng bước phát triển theo định hướng một ngành kinh tế mới như cá tra.
Về nuôi biển, đồng chí đề nghị ngành cần đặc biệt lưu ý bài toán giống, thức ăn, trang thiết bị, hệ thống tàu thuyền và hạ tầng phục vụ nuôi biển. Quyết định số 1664 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển nuôi biển đã xác định đây là một ngành kinh tế - kỹ thuật, do đó phải có thiết chế nghiên cứu bài bản, so sánh với khu vực quốc tế để xác lập định hướng phù hợp.
Đối với khai thác, đồng chí thẳng thắn chỉ rõ: tàu nhỏ, thiết bị lạc hậu, thiếu hệ thống bảo quản nên thất thoát sau thu hoạch còn lớn. Đồng chí đề nghị xây dựng đề án mới, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về rà soát đối tượng khai thác, kích thước, khối lượng, tiêu chuẩn tàu, đảm bảo không gian phát triển bền vững với hệ thống trang thiết bị hiện đại, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, quy chuẩn kỹ thuật rõ ràng.

Đồng chí Trần Đình Luân (ảnh giữa) Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư chủ trì đại hội. Ảnh: Linh Linh.
Về chống khai thác IUU, đồng chí yêu cầu tổ chức thực hiện nghiêm túc hệ thống văn bản hiện có như Chỉ đạo 81 và Nghị định 32. Tuy nhiên, đồng chí nhấn mạnh điểm yếu vẫn nằm ở khâu chỉ đạo của các địa phương. “Bây giờ quản lý đội tàu trên bờ, phải nắm hết tàu, người tài công, thuyền trưởng. Phải rà soát kỹ việc truy xuất nguồn gốc, nhật ký khai thác. Xử lý vi phạm hành chính phải triệt để. Từ giờ đến cuối năm, phải chuẩn bị để EC vào kiểm tra. Đây là thời cơ, là thời đại, là cơ hội của cả dân tộc, phải quyết tâm giải quyết xong thẻ vàng”, đồng chí nhấn mạnh.
Trong lĩnh vực kiểm ngư, đồng chí đề nghị phát huy tối đa hệ thống trang thiết bị hiện có, đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Đối với công tác bảo tồn, cần được triển khai song song với quy hoạch cảng cá, bến tránh trú bão, rà soát lại phân công, phân nhiệm rõ ràng. Bảo tồn được xác định là một trong ba trụ cột cùng với nuôi trồng và khai thác.
Đồng chí cũng nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ. “Phải xác định rõ đột phá cái gì? Blockchain, AI, Big Data áp dụng thế nào trong nuôi biển, khai thác, nuôi trồng? Tránh hô khẩu hiệu. Quản lý đề tài đã tiến bộ nhưng phải nắm được hiệu quả, sản phẩm cụ thể ở đâu. Công nghệ sinh học như mô phôi tế bào, vi sinh vật cần được dẫn dắt, cập nhật kịp thời. Chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo phải vận dụng đồng bộ”. Đồng chí cũng yêu cầu tổng kết, đề xuất sửa đổi khung pháp lý phù hợp với giai đoạn phát triển mới, tích hợp định hướng kinh tế xanh, chuyển đổi xanh và giảm phát thải.
Kết luận chỉ đạo, đồng chí Phùng Đức Tiến nhấn mạnh rằng đây là một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn thể lãnh đạo và đảng viên. “Sâu rồi thì mọi người phải thấm nhuần, phải hiểu, phải nắm được thực trạng, mới tạo được khối đoàn kết nhất trí, trên dưới một lòng, dọc ngang thông suốt, để củng cố sức mạnh tập thể của ngành”, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh.
Quyết tâm chính trị cao trong tháo gỡ 'thẻ vàng' IUU
Song song với định hướng chỉ đạo sâu sát của đồng chí Phùng Đức Tiến, nhiều tham luận tại Đại hội cũng đã cung cấp những căn cứ khoa học và thực tiễn quan trọng, làm rõ thêm vai trò của Đảng bộ trong phát triển ngành. Trong đó, Chi bộ Phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế nhấn mạnh, tổng sản lượng thủy sản năm 2024 đạt 9,7 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu 10,03 tỷ USD – đưa Việt Nam trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. Khoảng 30% giá trị gia tăng ngành có sự đóng góp trực tiếp từ khoa học công nghệ.

Đồng chí Phùng Đức Tiến, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường trao hoa cho đại hội. Ảnh: Linh Linh.
Trong giai đoạn 2020–2025, ngành đã chọn tạo thành công nhiều giống thủy sản chủ lực như tôm chân trắng, cá tra kháng bệnh, rô phi chịu mặn, cá chim vây vàng và hàu sữa tăng trưởng nhanh. Đồng thời, ngành cũng phát triển công nghệ thức ăn đặc thù, công nghệ xử lý môi trường nước, hệ thống cảnh báo dịch bệnh, truy xuất nguồn gốc điện tử và hệ sinh thái công nghệ số trong nuôi trồng – khai thác – bảo quản. Một số mô hình kinh tế xanh, tuần hoàn đã được hình thành, tạo tiền đề cho đổi mới sáng tạo bền vững.
Ở lĩnh vực nuôi biển, một trong ba trụ cột chiến lược, Chi bộ Nuôi trồng Thủy sản cho biết sản lượng nuôi biển đã đạt 832.000 tấn vào cuối năm 2024, tăng 38,7% so với năm 2020. Với hơn 9,7 triệu m³ thể tích lồng nuôi và 58.000 ha nuôi nhuyễn thể, tốc độ tăng trưởng nuôi biển đạt trung bình 8,5%/năm - gần gấp đôi mức tăng của nuôi trồng thủy sản nói chung... Nuôi biển không chỉ góp phần giảm áp lực lên khai thác mà còn trở thành hướng đi chiến lược gắn với an ninh biển đảo, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng ven biển.
Đặc biệt, Chi bộ Khai thác Thủy sản khẳng định, việc xử phạt IUU cũng có chuyển biến rõ rệt khi riêng năm 2024 đã xử lý 15/58 vụ vi phạm với tổng số tiền phạt hơn 10 tỷ đồng. Việc giảm số tàu cá vi phạm từ 258 (năm 2016) xuống còn 14 tàu trong nửa đầu năm 2025 cho thấy quyết tâm thực thi pháp luật đang dần mang lại hiệu quả thực chất.
Các kết quả và khuyến nghị tại Đại hội lần này sẽ là tiền đề để Đảng bộ Cục Thủy sản và Kiểm ngư tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, Chương trình chống khai thác IUU Quốc gia và các Chiến lược kinh tế biển của Đảng và Nhà nước.