Trăn trở
Mùa khô Tây Nguyên như “chảo lửa” quả không sai. Thời điểm đầu giờ tối, nhà nhà đã lên đèn, trẻ con, người già bắt đầu lên giường, nhưng cái nóng oi nồng vẫn chưa dứt. Ngồi trước sân nhà ông Tàng, xoay tua chén rượu men lá (người Tày dùng 38 loại lá rừng ủ thành men), ông Đức ví von cuộc đời mình như bản nhạc lúc trầm lúc bổng, những cung thanh cung trầm đã thử thách cả tuổi thanh xuân của ông và bây giờ vẫn tiếp tục thử thách.

Mùa khô Tây Nguyên như thiêu cháy cỏ cây. Ảnh: Đình Du.
Người con của đất vốn dĩ kiệm lời, ngồi bất động như "pho tượng" kể cả khi ánh đèn xe máy của ông Đại Hà trờ tới. Ông Đại Hà cười, nói sang sảng: “Nhờ kênh Tam Lực mà bản làng được ấm no, bà con ưng cái bụng. Những nốt nhạc trầm của bác Đức đã hòa mình vào bóng đêm tan biến ở nơi thâm sơn cùng cốc từ lâu rồi. Ở cái tuổi chiều tàn, bác cứ ngóng trông con cháu sớm trưởng thành, chúng xuống miền xuôi “gánh chữ”, gánh cái tri thức về phục vụ cộng đồng mình ngày càng văn minh”.
Nhưng không, ông Đức thốt lên: Tôi lo con kênh này sẽ chấm dứt sứ mệnh lịch sử của mình trong một sớm một chiều". Lời của ông Đức khiến hai người bạn Tàng và Đại Hà và chúng tôi cùng sựng lại, nụ cười tắt trên môi. Không lẽ con kênh Tam Lực và dòng nước xanh như ngọc của nàng K’rông H’Năng tràn đầy sinh lực hàng chục năm miệt mài tắm mát cho hàng trăm ha nương rẫy trù phú đã đến lúc... kết thúc sứ mệnh? Nhìn vẻ mặt như ngơ ngác của chúng tôi, ông Đức chậm rãi giải thích: “Đói nước. Sông K’rông H’Năng cạn. Chỉ cần mươi ngày nữa không có mưa là dòng kênh sẽ không còn nước để chảy về thôn”.

Ông Tàng dọn lá cây, sình bùn trong cống dẫn nước kênh Tam Lực. Ảnh: Đình Du.
Câu nói như “đóng đinh” kết liễu sự sống hơn hai mươi năm của con kênh. Kết liễu sự âm thầm dâng hiến của dòng nước cho sự phồn vinh, no ấm của cả vạn con người. Như một kỹ sư thủy lợi chính hiệu, ông Đức cặn kẽ giải thích: “Nhà báo cứ thử hình dung dòng sông K’rông Năng dài khoảng 134 km chảy qua đâu chỉ tỉnh Đắk Lắk này, còn qua cả Gia Lai, Phú Yên nữa chứ. Tỉnh nào nơi dòng sông đi qua cũng có những công trình thủy lợi, đập chắn khai thác tiềm năng con nước. Lớn nhất là công trình thủy điện K’rông H'năng tại vùng đất xã Ea Sô (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk) và Ea Ly (huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên). Năm nay mùa khô hạn gay gắt quá, sợ các hồ tích nước hút cạn cả nước dòng sông K’rông Năng.
Ấp ủ xây hồ chứa
Mùa mưa ở Tây Nguyên nước rất nhiều, thừa mứa cho nông nghiệp, nhưng hễ vào mùa khô thì nắng hạn quay quắt cả đất trời. Tây Nguyên rộng lớn đất canh tác cây công nghiệp cho giá trị kinh tế cao nhưng lại “ngốn” một lượng nước khổng lồ. Ở xã Ea Tam và ngay thôn Tam Lực thôi, diện tích đất canh tác trồng trọt từ sau khi con kênh hoàn thành đã nở ra rất nhiều. Con kênh Tam Lực là giá trị, là chìa khóa then chốt để đất đai nảy nở, sinh sôi diệu kỳ, tạo nên cuộc sống ấm no cho bà con”, ông Đức trầm ngâm nói.

Hạ nguồn sông K'rông Năng cạn khô nước. Ảnh: Đình Du.
Quả không sai, sự khấm khá từ hàng chục năm nay của bà con người Tày ở Ea Tam không chỉ biểu hiện bằng nhà cửa, của cải vật chất, mà nó còn ngầm chảy trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng. Khi đời sống vật chất được đảm bảo thì đời sống tinh thần cũng được quan tâm nhiều hơn. Gần 40 năm kể từ thời kỳ đầu người dân các tỉnh vùng Tây Bắc vào khai hoang, cộng đồng người Tày, Nùng… nơi đây đã tổ chức “Lễ hội văn hóa dân gian Việt Bắc” nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa của người đồng bào phía Bắc trên mảnh đất Tây Nguyên.
Theo ông Đại Hà, nguyên chủ tịch xã Ea Tam, ngày Tết Thanh minh cũng được chính quyền xã cùng bà con tổ chức lễ hội với trang phục truyền thống và các trò chơi dân gian như: ném còn, hát then, hát tính... suốt cả tuần lễ. Những ngày Tết này, các gia đình người Tày đi tảo mộ tổ tiên. Trong tiềm thức của người Tày, Nùng, ngày Tết Thanh minh là ngày để con cháu nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, tổ tiên và người đã khuất.

Dòng sông không còn "dữ tợn", không còn tiếng nước chảy rì rào, thay vào đó là những tảng đá to nhỏ trơ ra ngay trong chính lòng sông. Ảnh: Đình Du.
Trở lại câu chuyện kênh Tam Lực, chúng tôi nhớ như in lúc xuống núi, hình ảnh ông Đức, ông Tàng dừng chân bên một thung lũng rộng bên con kênh Tam Lực, ông Đức cầm cái rựa chỉ xuống một vùng rừng nằm trũng phía dưới, rồi nói: “Mùa khô con nước từ dòng kênh, dòng sông K’rông Năng chỉ có khả năng đến thế. Nhà báo thấy lòng sông đã cạn trơ lòng, lộ ra những bãi đá ngầm như bộ xương khô. Nhưng vào mùa mưa sắp đến, con nước ở đây lại gầm gào, chảy sục sôi mãnh liệt, lại trôi tuột đi mất, không có cách gì giữ lại. Quá uổng phí lượng tài nguyên này”.
Cái thung lũng mà ông Đức chỉ, theo ông nó hứa hẹn một hồ chứa nước với dung tích tiềm năng rất lớn. Rồi ông vẽ ra cái viễn cảnh mà mình đã ấp ủ bấy lâu rằng, cái lòng chảo đó là “thai nghén” của một hồ chứa nước khổng lồ. Nếu được xây dựng thì không chỉ điều tiết thủy lợi cho xã Ea Tam mà còn chia sẻ nước mùa khô cho cả cái huyện K’rông Năng và các huyện lân cận.
Lời khẩn cầu
Dù ở cùng một xã, sinh sống chỉ cách nhau khoảng 10 km, nhưng có lẽ lâu lắm rồi cả ba "tác giả kênh Tam Lực" mới có dịp hội ngộ. Qua chén rượu men lá, họ thảo luận đủ thứ chuyện trên đời, nhưng cuối cùng vẫn quay về câu chuyện chính là kỳ tích khai sơn phá thạch để mang dòng nước xanh như ngọc của nàng K’rông H’Năng về tắm mát cho vùng “đất lửa”.

Ông Đức lời rằng, kênh Tam Lực sắp phải kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình. Ảnh: Đình Du.
Câu chuyện của kênh Tam Lực như sợi dây kết nối “thời oanh liệt” của cả ba. Họ cứ thế râm ran lời nối lời, lúc thì trầm ngâm, lúc thì rổn rảng, cũng có lúc cả ba lại xuống giọng với nhau bằng tiếng Tày gan ruột.
Bộ ba “tướng sĩ tượng” ấy, lúc cười đùa bên nhau như "trẻ nít" dù ai cũng đã tuổi tác nhuốm màu thời gian, lúc xa xăm lo âu, lúc sáng lên như ai đó vừa đưa ra một ý tưởng, sáng kiến nào đó khả thi để duy trì "sự sống" dài lâu con kênh Tam Lực, cứu cánh rừng Ea Tam và hơn hết, cứu dòng K'rông Năng trước nguy cơ cạn đáy do con người và thời tiết ngày càng khắc nghiệt. Họ vui đấy rồi buồn đấy, buồn đấy rồi lại tự tìm niềm vui để an ủi nhau.
Chúng tôi cũng lây cái vui của họ qua chén rượu bí truyền của người Tày được chắt lọc tinh túy từ 38 loại lá rừng. Gõ gõ ngón tay vào thành ghế, ông Đại Hà đu đưa người, khe khẽ cất một đoạn trong bài hát "Con kênh xanh xanh", do nhạc sĩ Ngô Huỳnh sáng tác:
“...Con kênh xanh xanh những chiều êm ả nước trôi.
Ghi sâu nơi tôi bao ngày chiến đấu nổi sôi
Con kênh xanh ơi khi mùa sen nở khắp nơi
Bên nhau ta xây trọn bài tình ca thắm tươi...".
Trong ngà ngà… men rượu, chúng tôi chia tay bộ ba "tác giả kênh Tam Lực". Trên đường đưa chúng tôi ra chuyến xe cuối cùng để về thành thị, ông Đại Hà bật lên lời khẩn thiết: “Dòng chảy sông K'rông Năng những năm qua yếu dần vào mùa khô, bà con Ea Tam cần lắm một cái hồ chứa nước...”.