Ý tưởng… điên rồ
Đưa nước ngọc từ sông K’rông Năng xuyên rừng già về giải khát cho nương rẫy là thách thức quá lớn mà thiên nhiên dành cho người đồng bào Tày ở thôn Tam Lực. Là bài toán tưởng chừng không có đáp án, là chuyện... không tưởng ở thời điểm cách nay đã gần 25 năm. Quả đúng vậy, khi ông Lý Văn Đức trình bày ý tưởng "hoang đường” ấy với lãnh đạo xã Ea Tam liền nhận ngay những cái lắc đầu nguầy nguậy, cùng những ánh nhìn nghi ngờ! Họ đưa ra cả ngàn lý do để gạt phăng… cái niềm tin điên rồ không thể của ông Đức, như: nhân lực, kinh phí, luận án kỹ thuật, báo cáo tiền khả thi, trình các cấp ngành xem xét phê duyệt, chỉ đạo...

Ông Tàng cùng ông Đức là hai tác giả lên ý tưởng "khai sơn phá thạch" để đào kênh Tam Lực. Ảnh: Đình Du.
Nhưng với ông Hà Văn Tàng (người Tày, nay đã 64 tuổi) thì khác. Thời điểm ấy, ông Tàng là trưởng thôn Tam Lực, cũng là người vùng cao phía Bắc năm 1986 di cư vào Tây Nguyên, cùng bà con khai hoang mảnh đất ở xã Ea Tam này. Ông Tàng là bộ đội phục viên, đã cầm súng xông pha trận mạc, vào sinh ra tử chống giặc ngoại xâm ở các mặt trận biên giới phía Bắc.
Vốn là người lính với lẽ sống "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua", ông Tàng đã thấy cái khả thi, cái được ở ý tưởng khai sơn phá thạch tìm nguồn nước giúp buôn làng của ông Đức. Rồi hai ông ngày ngày lần hồi theo con đường mòn, xuyên đại ngàn cả chục cây số ấy, cùng nhau chặt cây, đóng cọc, đóng dấu mốc từng cung đoạn, từng tảng đá, từng khe cạn... vượt qua cao độ để dần hình thành, thai nghén đường nước vượt núi, con kênh sẽ đào trong tương lai.

Cách duy nhất lên thượng nguồn sông K'rông Năng là phải bộ hành xuyên rừng. Ảnh: Đình Du.
Chúng tôi quyết mục sở thị con kênh huyền thoại đã hình thành gần 25 năm trước. Canh 5 gà rừng chưa kịp gáy, đại ngàn đã bị đánh thức bởi âm thanh pành pạch phát ra từ hai chiếc xe máy đang cố gắng trườn qua những con dốc trơn như bôi mỡ. Heo hút chốn thâm sơn trong màn đêm. Gió rít lên từng hồi len lỏi qua khe núi như thể đón chào những vị khách không mời mà tới.
Xe chúng tôi bám theo vết xe của ông Đức chở ông Tàng xuyên rừng. Ánh bình minh ló dạng. Chiếc xe tiên phong dừng lại để chúng tôi chiêm ngưỡng cảnh sắc ở đằng đông đang tỏa ánh dương rực sáng cả một góc trời. Hướng tay xuống triền núi, thật vi diệu, ông Tàng mời chúng tôi chiêm ngưỡng khung cảnh thơ mộng như tranh của hàng triệu con bướm rập rờn bên những đóa hoa sầu riêng lung linh thơm dịu. Thả hồn cùng đại ngàn, bất giác ông Tàng nghêu ngao câu hát: “Nước khe cạn bướm bay lèn đá, biết lòng anh say miền đất lạ...” (lời trong ca khúc Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, thơ Phạm Tiến Duật, nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc).
Khai sơn phá thạch
Càng lên cao, đường đi càng nhiều khúc cua cánh chỏ, một cái xóc nảy lửa khiến chúng tôi tắt phụp… sự lãng mạn. Đúng nghĩa mùa khô Tây Nguyên nắng nóng như chảo lửa. Mặt trời vừa lủng lẳng đỉnh núi là cái nắng tràn tới như hắt vào mặt. Gồng mình chạy xe trên con đường mòn. Nhiều đoạn sống trâu như muốn hất văng tay lái vào bụi rậm. Những cành cây lòe xòe hai bên đường như thể trêu ngươi, thi thoảng vụt rát mặt người. Trong khi chúng tôi gồng mình để soi từng mét đường thì hai ông thổ địa phía trước cứ ung dung chạy một cách thần kỳ, đuổi theo mà bở cả hơi tai.

Đường vào rừng. Ảnh: Lê Minh.
Rồi đến đoạn mà xe máy không thể nào “cày” nữa, chúng tôi cuốc bộ leo ngược lên thượng nguồn. Vẫn cảnh “hai ông già” người Tày cầm rựa đi trước phát quang bụi rậm, chúng tôi lẽo đẽo theo sau. Thi thoảng, dòng kênh lại hiện ra dưới chân với dòng nước trong xanh mát lạnh. Dù ông Đức và ông Tàng đã và sắp bước sang cái tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng thân thể chắc nịch, mắt tinh, tai thính. Hai ông băng suối, lội rừng thoăn thoắt như cặp sóc. Nhiều đoạn băng rừng, hai ông già phải dừng lại để chờ cậu “thanh niên” một hồi lâu mới hổn hển bước tới. Quả thật, hổ không gầm cứ ngỡ là mèo. Rừng xanh luôn có chủ.
Tiếng ve sầu kêu đinh tai nhức óc, lấn át cả câu chuyện phá đá đào kênh dẫn nước của cộng đồng người Tày. Ngồi trên mỏm đá giữa lòng sông K’rông Năng khô hạn, ông Tàng lời rằng: “Ý tưởng huy động sức người đào kênh dẫn nước xuyên đại ngàn “dở hơi” được anh Đại Hà (nguyên Chủ tịch UBND Ea Tam) rất ủng hộ. Thời điểm đó, anh Đại Hà chỉ ủng hộ với tư cách cá nhân. Để huy động được lòng dân, góp công góp sức, tôi tổ chức họp cả chục lần ở thôn Tam Lực. Ban đầu họ cũng tỏ ra nghi ngờ, nhưng rồi cũng dần bị thuyết phục bởi cái hạn, cái thiếu nước hiển hiện trước mắt, đe dọa sự sống của hàng trăm hộ dân với hàng trăm ha lúa nước đang mỏi mòn ngóc đầu chờ được tưới tắm”.

Bờ tràn dẫn nước sông K'rông Năng vào kênh Tam Lực. Ảnh: Đình Du.
Mọi người đồng lòng rồi, bộ ba “xe, pháo, mã” bắt đầu đứng ra chỉ huy công trình. Công cuộc khai sơn phá thạch hoàn toàn bằng thủ công giữa thời buổi con người cùng tàu vũ trụ đã bay lên cung trăng là một thử thách tột bậc ý chí và sức lực của con người.
“Hiệp sĩ” giữa đại ngàn
Có những đoạn đào kênh đụng phải đá tảng, không thể nào phá đục bằng cuốc, bằng xà beng, bà con chất củi lên đá rồi nổi lửa nung ngày nung đêm cho đá thành vôi, rồi tưới nước để đá giòn dễ phá. Dù muỗi mòng rắn rết, sốt rét, tai nạn… nhưng người dân xã Tam Lực vẫn thắp đuốc đào từ đêm đến sáng. Họ vừa đào vừa khấn vái các loại... ma rừng rủ lòng thương bỏ nơi trú ngụ để nhường dòng chảy cho con kênh.

Ông Đức cho biết việc nhóm lửa nung đá tảng giòn ra rồi đập nát là khó khăn gian khổ nhất trong thời gian thi công. Ảnh: Đình Du.
Khi công việc đào kênh dần đi vào nề nếp thì người dân thôn Tam Lực bắt đầu đối diện với cái đói. Nỗi sợ bao trùm lên tinh thần và sức lực của họ vì ruộng lúa thì đang trổ bông, trong khi hũ gạo nhà nào cũng cạn láng. Người dân không thể xoay sở, vay mượn vì nhà nào cũng... đói như nhà nấy. Nhiều ngày, trai tráng trên “đại công trường” xuyên rừng cả ngày mỗi người chỉ lót bụng vài củ khoai mì, củ chuối và củ mài. Cái đói đã bào mòn ý chí của họ.
Hồi tưởng lại “cái khúc” quá đỗi nghiệt ngã ấy, ông Tàng gần như lạc giọng: “Ngoài chung vai đấu cật với dòng kênh trên công trường, anh Đại Hà đúng nghĩa là chàng hiệp sĩ hào hoa, nghĩa hiệp, đã chạy khắp nơi vay mượn hàng tấn lương thực để cứu đói cho bà con. Nếu không no cái bụng thì chắc chắn việc đào kênh buộc phải dừng lại”.

Nước kênh Tam Lực dùng tưới tiêu cho hàng trăm ha cây sầu riêng đang mùa đơm hoa kết trái. Ảnh: Đình Du.
Giữa tiếng ve và cái nóng oi ả dưới đáy sông K’rông Năng trơ lòng, ngồi trên bãi đá, ông Đức, ông Tàng cứ tiếp lời nhau thuật lại quá trình “vượt ngàn chông gai” để làm nên cái chuyện tưởng như không tưởng của hàng chục năm trước. Rồi cả trăm ngày vắt kiệt công sức với mồ hôi và cả máu, cũng đến ngày dòng K’rông Năng trả “quả ngọt” cho buôn làng bằng dòng nước mát. Và tên Tam Lực cũng được đặt cho con kênh dân sinh này.
Hàng chục năm qua, người dân ở thôn Tam Lực không những làm được hai vụ lúa, họ còn thành công với hàng trăm ha trồng cà phê, tiêu và sầu riêng. Chính sự đoàn kết, cần mẫn của họ đã thay “áo mới” thôn Tam Lực nói riêng, xã Ea Tam nói chung. Từ địa phương nằm trong danh sách nghèo nhất tỉnh Đắk Lắk, phải nhận trợ cấp gạo từ Chính phủ, nhưng họ đã vượt khó và đến nay vẫn giữ chuẩn nông thôn mới.
“Ý chí và nghị lực của người dân thôn Tam Lực như được khắc họa trong hai câu thơ bất hủ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ vỡ đất: Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, ông Tàng tự hào.
còn tiếp...