LTS: Trong cái nắng như “dội lửa” vào mặt, chúng tôi tìm về thôn Tam Lực, xã Ea Tam, huyện K'Nông Năng, tỉnh Đắk Lắk, tận mắt chứng kiến thành quả “khai sơn phá thạch” từ thập niên 1980 của những "người hùng" và người dân nơi đây. Họ đã mở đường, đào con kênh Tam Lực, dẫn nước từ dòng sông K’Rông Năng về cứu một vùng đất đỏ bazan từng quay cuồng trong khô hạn. Nhắc chuyện xưa lại ngẫm chuyện nay...
Gặp người viết kỳ tích giữa đại ngàn
Gần 14 năm quay lại các buôn làng ở xã Ea Tam, chúng tôi quá đỗi bất ngờ trước những thay đổi của đời sống người dân nơi đây. Cái nghèo đã không còn đeo bám họ.
Nắng như “tấm lưới lửa” chụp xuống xã vùng sâu Ea Tam, nơi có đến 85% dân số là đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc như: Tày, Nùng, Thái, Dao… di cư vào cái nơi “khỉ ho cò gáy” cắm dùi gần 40 năm trước.

Trên đường tìm nhà tác giả kênh Tam Lực nối sông K'rông Năng, chúng tôi không khó bắt gặp hình ảnh những căn nhà mới của người dân thôn Tam Lực. Căn nhà cũ thuở di cư vào vỡ hoang vẫn nằm bên cạnh, họ giữ lại làm kỷ niệm. Ảnh: Đình Du.
Trong suốt hành trình, câu chuyện từ trong nhà ra đầu ngõ, đến quán xá... ở Tây Nguyên mùa này luôn là nguồn nước tưới cho cây trồng trong cái tiết khô hạn đến “héo” cả đất trời. Cưỡi “con ngựa sắt” cà tàng, chúng tôi trèo trên những con đường mòn đất đỏ quạch bazan lầm bụi để tìm cho ra những con người gần 25 năm về trước đã khai mở đất, làm nên hình hài con kênh dẫn nước, mang nước về tắm mát cho nương rẫy - những con người viết kỳ tích giữa đại ngàn.
Lân la cả buổi, cuối cùng chúng tôi cũng tìm được nhà ông Lý Văn Đức (71 tuổi, dân tộc Tày) nằm ven thung lũng bên bìa rừng khuất trong vườn sầu riêng đang mùa trổ bông đậu trái. Dù mới tao ngộ, mới chạm nhau qua cái bắt tay nhưng chúng tôi đã cảm nhận ngay ông Đức là người con của... đất. Da ông sậm nâu màu đất, tướng cao, xù xì, bàn tay to, thô ráp, và đặc biệt rất kiệm lời, im lìm như đất, hoang sơ như đất. Dường như chính đất đã sinh ra ông.

Ông Lý Văn Đức kể về hành trình gian nan đào kênh Tam Lực. Ảnh: Đình Du.
Mỗi khi chúng tôi nhắc đến những năm tháng khai phá vùng đất này, thân hình cao lớn của ông Đức lại gập xuống, vai so lại. Giọng ông trầm đục, nghèn nghẹn, lại thêm phát âm tiếng Kinh rất khó nghe khiến ông Đại Hà (nguyên Chủ tịch UBND xã Ea Tam) phải đỡ lời: “Thập niên 1980 ấy là những năm tháng đói kém, khốn khó, bà con người Tày di dân từ các tỉnh Tây Bắc vào khai phá vùng núi hoang sơ này. Vốn cần cù, không quản gian khổ, người Tày bằng đôi bàn tay hay lam hay làm đã khai phá chốn hoang vu đầy “lam sơn chướng khí” để tạo dựng cho mình mảnh đất cắm dùi. Bà con người Tày vốn đã quen canh tác lúa một mùa ở vùng núi phía Bắc, nên ở đây cũng vậy, họ chỉ trồng lúa “chống đói” mà thôi”.
Khát cạnh dòng sông
Chiêu ngụm trà bắc, giọng ông Đại Hà xa xăm, miền đất đỏ bazan Tây Nguyên vô cùng màu mỡ nhưng lại có mùa khô vô cùng khắc nghiệt. Cái nắng nóng như “lò bát quái” của Thái Thượng Lão Quân thiêu rụi năng lượng trong con người. Đất màu mỡ là vậy, nhưng người dân chỉ trồng lúa có một vụ dựa vào nước mùa mưa, còn mùa khô thì để mặc nương rẫy… “thuận theo ý trời”.

Đường lên thượng nguồn sông K'rông Năng. Ảnh: Đình Du.
Như để “minh họa” cho những năm tháng bĩ cực ấy, ông Đức đế thêm: “Làm lúa chỉ một mùa mà còn “xất bất xang bang”, đói lên đói xuống. Có những tháng ngày đói muốn vàng con mắt. Bà con phải trồng thêm khoai mì, chuối để độn với cơm. Độn khoai mì nhiều đến nỗi bà con phải tếu táo, tự trào với nhau là ăn “nhân sâm” cho đỡ tủi thân. Cũng may, những năm “đói vàng mắt” ấy bà con còn có rừng để mà... nương tựa”.
Rừng Tây Nguyên vốn dĩ hào phóng. Một thời vào mùa khô, củ mài ở chốn thâm u trở thành “vị cứu tinh” của người dân xã Ea Tam. Cái đói, cái hạn khắc nghiệt ở đây như trêu ngươi con người. Bởi cách đó không xa thôn Tam Lực là tiếng nước của dòng sông K’rông Năng ngày đêm chảy ầm ầm. Sự trêu ngươi của thiên nhiên khiến ông Đức mất ăn mất ngủ. Ông tự nhủ, sao con người cứ phải vật vạ, đói lên đói xuống và nương rẫy cứ khát đến khô nẻ bên dòng sông nước xanh như ngọc hả hê chảy thế kia.

Ông Tàng, trưởng thôn Tam Lực phát quang cây rừng, hạn chế cây khô đổ xuống ảnh hưởng dòng chảy của con kênh nằm song song với đường mòn. Ảnh: Đình Du.
Từng ngày, ông Đức vác rựa băng rừng, phát quang thành đường mòn dẫn đến bờ sông. Mỗi bước chân âm thầm đều nằm trong sự điều nghiên, toan tính của ông. Cứ thế ông lầm lũi, xuyên rừng thiêng nước độc, muỗi mòng, rắn rết. Và... dần dần một đường nước được hình thành trong mường tượng cùng ý chí sắt đá: bằng mọi cách phải đưa được dòng nước ngọc về.
Ngày qua ngày, con đường mòn, đường nước xuyên núi, băng rừng từ sông K'rông Năng của ông Đức đã hiển hiện...
K’rông H’Năng - ơn nàng nghĩa nặng tình sâu
Trong câu chuyện kể, ông Đức và ông Đại Hà đều rất hay nhắc đến từ "nước ngọc". Hóa ra, điều này liên quan đến chuyện xưa tích cũ của người đồng bào vùng cao ở Tây Nguyên được truyền miệng qua ngàn đời.
Theo lời kể của ông Đại Hà thì sông K’rông Năng có tên đầy đủ là K’rông H’Năng (theo cách gọi của người J’rai). Bắt nguồn từ dãy núi Chư Tun tỉnh Kon Tum ở độ cao 1.200 m, dài hơn 134 km, sông K'rông Năng chảy qua tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Yên rồi đổ vào sông Ba. Là một dòng sông nhỏ, hiền hòa vào mùa khô, nhưng mùa mưa dữ dội khác thường.

Ông Đức thuật lại quá trình “vượt ngàn chông gai” để mang nước mát về tắm mát cho cây trồng. Ảnh: Đình Du.
Truyền thuyết của người J’rai viết rằng, K’rông H’Năng là tên của một nàng thiếu nữ tuyệt sắc giai nhân, có mái tóc dài mượt như suối. Nàng là con của một tù trưởng hùng mạnh. Năm đó hạn hán không một giọt mưa, cái nóng thiêu đốt khiến con người, mùa màng, chim muông, thú rừng… xác xơ, kiệt quệ. Buôn làng nhiều lần làm lễ cúng Giàng (tín ngưỡng đa thần) để xin mưa và cầu sự bình an.
Rồi Giàng cũng linh ứng, hứa sẽ ban cho buôn làng “nước trời” nhưng với điều kiện bộ tộc cùng tù trưởng phải hiến tế cho Giàng nàng K’rông H’Năng xinh đẹp kia. Cảm thương cái đói, cái khổ của buôn làng, đóa hoa rừng ở tuổi xuân thì đã tự nguyện bước lên giàn hỏa thiêu hiến dâng tấm thân ngọc ngà cho Giàng. Lửa giàn thiêu còn chưa cháy hết thì đất trời đã tối sập xuống cùng tiếng sấm chớp làm rúng động núi rừng, trời đổ mưa trút nước suốt nhiều ngày. Cơn mưa vừa dứt thì nơi đây cũng hình thành một dòng sông lớn, nước chảy ào ạt.

Những bãi đá ngầm dưới lòng sông K'rông Năng. Ảnh: Đình Du.
Buôn làng cảm phục và nhớ ơn người trinh nữ đã lấy tên nàng đặt tên cho dòng sông. Dòng sông K’rông H’Năng từ đó quanh năm mang nước vàng nước ngọc cho buôn làng, cho nương rẫy bạt ngàn xanh tươi, cuộc sống người dân trong buôn ngày càng thấm khá nhờ bội thu từ canh tác nông nghiệp.

Ông Đại Hà (nguyên Chủ tịch xã Ea Tam) là một trong ba tác giả xây dựng kịch bản đào kênh Tam Lực. Ảnh: Đình Du.
Có nàng K’rông H’Năng mới có dòng sông K’rông H’Năng, có dòng K’rông H’Năng mới có dòng nước ngọc tưới tắm cho buôn làng Tam Lực, xã Ea Tam hôm nay... Câu chuyện như mạch nước nguồn không dứt, và ông Đức - người đàn ông âm thầm đặt những bước chân đầu tiên mở con đường và dòng kênh, cùng bà con người Tày ở thôn Tam Lực xẻ núi băng rừng vượt qua ngàn gian khó đưa dòng nước ngọc về thôn Tam Lực vẫn miên man trong hồi ức về những tháng năm kỳ diệu ấy...
Ông Đức âm thầm phát quang "con đường nước" từ buôn làng đến bờ sông K’rông Năng. Với “ý chí sắt đá” bằng mọi cách phải đưa được nước về tắm mát nương rẫy, nuôi sống buôn làng.
còn tiếp...