| Hotline: 0983.970.780

Kỳ tích khai sơn phá thạch: [Bài 3] Ấm no nhờ dòng nước ngọc

Chủ Nhật 15/06/2025 , 04:01 (GMT+7)

‘Từ khi kênh Tam Lực hoàn thành tôi mới biết thế nào là cuộc sống ấm no, đủ đầy’, ông Tàng, người cựu chiến binh dày dạn sương gió bộc bạch.

Tắm mát vùng đất khát

Mặt trời lủng lẳng đỉnh đầu, ngồi trên tảng đá trồi lên từ lòng sông K’rông Năng mùa cạn đang trơ đáy, ông Đức vo vo nắm cơm muối vừng mang theo lót dạ, còn ông Tàng vẫn say sưa kể về dòng nước kênh Tam Lực đã làm đổi thay bao phận đời.

Hai bên đường dẫn vào kênh Tam Lực xanh mướt những rẫy cà phê, sầu riêng. Ảnh: Đình Du. 

Hai bên đường dẫn vào kênh Tam Lực xanh mướt những rẫy cà phê, sầu riêng. Ảnh: Đình Du. 

“Trước đây để có nước, người dân thôn Tam Lực phải thuê khoan giếng. Giá thuê khoan mỗi mũi đâu có rẻ, mà đâu phải mũi nào khoan xuống cũng có nước. Bình quân cứ 3 mũi khoan thì chỉ một mũi trúng nước để bơm lên. Từ lúc có kênh có nước, cuộc sống từ vật lộn với cái đói đã dần dần no cái bụng. Không chỉ thế, có nước dồi dào, người dân cũng đã khai phá thêm những mảnh đất mới để mở rộng diện tích canh tác, trồng những loại cây công nghiệp mang giá trị kinh tế cao.

Ban đầu là tiêu, với vài ba chục cọc, sau thấy cây tiêu ở miền đất màu mỡ này cho sản lượng và giá trị kinh tế cao, thế là người dân thôn Tam Lực hùa nhau mở rộng diện tích trồng tiêu. Rồi đến cây cà phê. Vụ nào trúng giá cà phê là bà con rủng rỉnh ví. Sau thu hoạch, cả thôn chộn rộn sửa nhà, xây nhà, sắm xe máy, ti vi cùng nhiều hàng điện máy gia dụng tiện nghi khác... Có gia đình còn mua cả xe hơi. Có tiền, người dân nâng cấp hệ thống ống tưới cho rẫy cà phê, sầu riêng, mua máy bơm, máy xới, thành lập các trạm sửa chữa máy nông cụ, cải tạo, xây mới hệ thống đường liên thôn, liên xóm từ đường đất đỏ nắng bụi, mưa lầy nay đã đổ bê tông láng o”, ông Tàng tự hào. 

Ông Đức kiểm tra dòng chảy kênh Tam Lực. Ảnh: Đình Du. 

Ông Đức kiểm tra dòng chảy kênh Tam Lực. Ảnh: Đình Du. 

Dù con kênh đã thành hình hài, nước đã về, nhưng trong lòng “tổng công trình sư” Lý Văn Đức vẫn lo ngay ngáy. Là, bởi do đào thủ công trên nền đất rừng nên con kênh, bề ngang non 1 mét, sâu cũng chừng ấy rất dễ bị xói lở.

Ông Đức đã mất ăn mất ngủ vì lo đất đá, cây rừng lở xuống chặn ngang dòng nước mát. Ông lại đi động viên, cắt cử các tổ, có lúc thân chinh vác cuốc, vác rựa... hàng tuần đi “tuần tra” dọc kênh. Chỗ nào xói lở thì móc đất đắp lại hai bờ, chỗ nào đất đá cây rừng chèn ngang thì khơi dòng. Cứ thế bộ ba Đức - Tàng - Hà và người dân thôn Tam Lực đều đặn đi và về vài chục cây số đường rừng mỗi ngày để canh kênh.

Bớt đi nhiều vết thương cho đất

“Tiếng tăm” của con kênh Tam Lực lập tức vang xa, tới huyện K’rông Năng rồi tới tỉnh Đắk Lắk. Với hiệu quả kinh tế, đời sống, xã hội từ dòng kênh mang lại và nhu cầu cấp thiết bảo vệ dòng kênh để bảo tồn nguồn nước cho dân, năm 2010, lãnh đạo huyện K’rông Năng bố trí vốn kiên cố hóa kênh Tam Lực. Nền kênh được trải đá, hai bờ được gia cố bằng gạch và xi măng, bê tông. Nhiều đoạn được mở rộng ra hàng chục mét vuông như cái ao nhỏ để hình thành những họng nước. Vùng đất Ea Tam dần thay da đổi thịt, khoác lên mình "chiếc áo mới" màu xanh của cây.

Để vị khách phương xa là tôi có thể tận hưởng dòng nước “mát ruột mát gan” trong cái nóng Tây Nguyên như nung người, ông Đức bảo chúng tôi lội xuống lòng kênh. Ngắm dòng nước quấn quýt chân người, ăm ắp đến gần đầu gối, ông hể hả, triết lý: “Nước ở đây mát quanh năm, nhờ đó mà bà con đã hạn chế xài giếng khoan, giếng đóng. Vừa không mất tiền, vừa ít gây hại cho nền đất và nuôi dưỡng được nguồn tài nguyên nước ngầm”. 

Lẫn trong tiếng ve rừng kêu inh ỏi, đâu đó vọng đến tiếng máy nổ xình xịch. Ông Tàng lý giải, đó là tiếng máy bơm của bà con kéo ống bơm nước từ kênh lên để tưới các rẫy sầu riêng đang mùa trổ bông, đậu trái. 

Bộ ba chỉ huy đào kênh Tam Lực (từ trái qua). Ảnh: Đình Du.

Bộ ba chỉ huy đào kênh Tam Lực (từ trái qua). Ảnh: Đình Du.

Nói thêm về việc khoan giếng ở thôn Tam Lực, ông Tàng cho biết: “Mỗi giếng khoan cao điểm mùa khô nếu có nước thì giá cả trăm triệu đồng. Nếu không có nước thì chủ rẫy và thợ khoan cùng “cưa đôi” chi phí. Ở Tây Nguyên đồi núi chập chùng, cơ bản là nền đá cứng. Mỗi mũi khoan xuống phải xuyên qua nhiều lớp đất, đá mới đến mạch nước ngầm. Nhiều giếng ở xã Ea Tam phải khoan rất sâu mới có nước. Tốn kém vô cùng. Mỗi ha cây trồng ở đây phải có tối thiểu một giếng khoan để cung cấp nước. Tính ra cái hiệu quả bằng “hiện kim” mà con kênh Tam Lực mang lại cho cả vùng này là rất lớn".

Qua cơn bĩ cực

Ở đại ngàn trời tối rất nhanh. Sương mù giăng lưới khắp đỉnh đồi. Chúng tôi hít thật sâu không khí trong trẻo rồi chia tay dòng nước ngọc và nàng trinh nữ K’rông H’Năng, hướng về thôn Tam Lực. Bản làng lấp loáng trong màn sương hòa cùng khói lam chiều giăng mắc trên các ngọn cây trước nhà dân, chẳng nhận ra đâu là sương, đâu là khói.

Bên mâm cơm muộn nhà ông Tàng, dõi mắt, chúng tôi bắt gặp vô số bằng khen, giấy khen ghi nhận công lao, thành tích của ông khi còn là người lính. Bên cạnh là bằng khen, giấy khen của con cháu, nhiều đứa đã vào đại học, xa nhà trú học ở thành phố Buôn Ma Thuột… Mà đâu phải con cháu của riêng ông Tàng. Rất nhiều con cháu của nhiều gia đình người Tày ở thôn Tam Lực đã vào đại học, chí ít là tốt nghiệp cấp Ba rồi đi học trường nghề, sẵn sàng bước vào một tương lai tươi sáng, huy hoàng hơn hẳn cha anh của “tụi nó”. Nỗi "bĩ cực" đã rời xa, sự đủ đầy, khấm khá trong từng gia đình ở đây đang hiện hữu, ấm no ấy có phần rất quan trọng từ dòng kênh Tam Lực mang lại.

Với những đóng góp cho địa phương, ông Hà Văn Tàng được tặng Giấy khen Người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk năm 2020. Ảnh: Đình Du. 

Với những đóng góp cho địa phương, ông Hà Văn Tàng được tặng Giấy khen Người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk năm 2020. Ảnh: Đình Du. 

Người Tày ở thôn Tam Lực phần lớn đã đưa con cháu của mình từ Tây Bắc vào lập nghiệp. Có nhiều gia đình đã cải táng đưa hài cốt cha ông vào nơi này để thờ tự. Đất đỏ bazan Tây Nguyên đã không phụ nết “chịu thương, chịu khó” của con người, sự màu mỡ, phì nhiêu đã ban tặng ấm no, khá giả. Vui là vui vậy nhưng lòng người vẫn đau đáu, trăn trở làm sao để giữ gìn và phát huy hơn nữa hiệu quả từ dòng kênh mang lại, cho hôm nay và cho thế hệ mai sau.

“Nhiều gia đình người Tày xem đất Ea Tam là quê hương thứ hai. Tôi đã cải táng, đưa hài cốt ông cha ở Bắc Kạn về đây an nghỉ. Rồi con cháu sau này cũng chôn cất vợ chồng tôi ở mảnh đất vỡ hoang này”, ông Đức tâm tình.

còn tiếp...

Xem thêm
Nghệ An mở đợt cao điểm '90 ngày, đêm' làm sạch dữ liệu hôn nhân

UBND tỉnh Nghệ An vừa ban hành Kế hoạch thực hiện mở đợt cao điểm '90 ngày, đêm' làm sạch dữ liệu hôn nhân và cắt giảm thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân.

Bình luận mới nhất