Hội nghị Reykjavik với tiêu đề "Nghề cá trách nhiệm trong hệ sinh thái biển (Responsible Fisheries in the Marine Ecosystem)" là sự kiện quan trọng mở đầu cho nghề cá thế giới bước vào thế kỷ XXI và thiên niên kỷ thứ ba.
Hội nghị nhằm tạo cơ sở khoa học với tính thuyết phục cao đưa Bộ Quy tắc ứng xử về nghề cá trách nhiệm (CCRF) tháng 10/1995 giữa các nước thành viên Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) vào vận hành đầy đủ và hiệu quả trong Hệ thống nghề cá thế giới. Đó chính là cơ sở để hiểu biết tốt hơn và cùng nhau gìn giữ môt cách trách nhiệm hệ sinh thái biển trên khắp đại dương toàn cầu.
Việt Nam cam kết thực hiện Luật ứng xử nghề cá trách nhiệm.
Bài này đã in lần đầu trong cuốn "Lắng đọng và suy nghĩ" với tiêu đề "Hội nghị Reykjavik và những năm sau đó". Do tầm quan trọng của Hội nghị khoa học này trong giai đoạn hiện nay về đại dương thế giới và tính logic giữa các kết luận của nó với các giải pháp bền vững cho nghề cá mọi nơi, chúng tôi thay đổi tiêu đề và có chỉnh sửa về kỹ thuật. Đây ở chừng mực nào đó cũng là thước đo để đánh giá thực trạng việc quản lý nghề cá chúng ta hiện nay. Và để tiện làm tham chiếu cho việc đó, phía dưới bài này tôi đưa thêm bản "Tuyên bố Reykjavik", kết quả quan trọng của Hội nghị.
Có lẽ phải nghĩ thêm. Một khi đã lấy hệ sinh thái biển là nền tảng của nghề cá trách nhiệm, thì một quy hoạch không gian biển phải đúng đắn và có mặt kịp thời; tăng trưởng xanh trên biển không chỉ là trách nhiệm riêng của ngành hải sản.
Sớm nhất sau khi CCRF được phê chuẩn phải kể đến Hội nghị Kyoto (Nhật Bản) về Đóng góp của nghề cá bền vững cho an ninh thực phẩm diễn ra ngày 4 - 9/12/1995. Tiếp theo đó là Hội nghị cấp Bộ trưởng cam kết thi hành CCRF diễn ra ở trụ sở của FAO tại Rome, Italia ngày 10 - 11/3/1999. Hội nghị Reykjavik là sự kiện lớn tiếp theo nằm trong chuỗi hoạt động quốc tế nhất quán đó.
Việt Nam tham gia CCRF ngay từ đầu, là thành viên tích cực của FAO hành động để sớm đưa những quy tắc của Bộ luật này vào hiệu lực trong bối cảnh những sự khác xa nhau của nghề cá các nước. Rất may mắn, cả 3 sự kiện nêu trên tôi đều được cử tham gia và nói lên tiếng nói của thủy sản Việt Nam.
Hội nghị Reykjavik, như tên gọi, diễn ra tại thủ đô Reykjavik (Iceland) từ ngày 1 - 4/10/2001, được Chính phủ Iceland kết hợp với FAO đứng ra tổ chức, có sự đồng tài trợ của Vương quốc Na Uy. Khoảng 400 người tham dự hội nghị, đại diện các nước thành viên FAO và các tổ chức khác của Liên hợp quốc, các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, đông đảo các nhà khoa học và doanh nghiệp liên quan. Đoàn Việt Nam cùng tham gia với tôi có TS. Vũ Văn Triệu, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ Thủy sản) và TS. Nguyễn Văn Long, Viện phó Viện Nghiên cứu Hải sản.
Tại phiên toàn thể, ông Árni Mathiesen, Bộ trưởng Bộ Nghề cá Iceland (nước chủ nhà), được Hội nghị bầu làm Chủ tịch. Đại diện cho các châu lục được bầu làm Phó Chủ tịch, gồm: Amar Ghoul (Algeria), Helia Sandra Morgado Da Silva (Angola), David Bevan (Canada), Mara Murillo (Mexico), John Annala (New Zealand) và tôi là Phó Chủ tịch đại diện cho Nghề cá khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Một tên tuổi quan trọng khác góp phần cho Hội nghị này thành công, đó là Dr. Abraham Iyambo, Bộ trưởng Bộ Nghề cá và Tài nguyên biển Namibia - người chủ trì ban soạn thảo "Bản tuyên bố Reykjavik về nghề cá trách nhiệm trong hệ sinh thái" - sản phẩm chính của Hội nghị.
Về nội dung, rất ấn tượng với tôi là phát biểu quan trọng và rõ ràng của ông Jacques Diouf, Tổng Giám đốc FAO, về nghề cá và đói nghèo trên thế giới, về tình trạng nghề cá kém hiệu quả kinh tế và xã hội đến mức đáng báo động, về sự sa sút nguồn lợi và sinh thái biển, về lối thoát cho những tình trạng đó thông qua thực hiện cam kết CCRF. Cam kết này là nội dung chính yếu được trình bày và thảo luận trong Hội nghị.
Gặp mặt của Bộ trưởng Árni Mathiesen - đại diện nước chủ nhà Iceland, Chủ tịch Hội nghị - (thứ hai từ trái sang) với ngài Jacques Diouf, cố Tổng Giám đốc FAO (thứ tư từ phải sang) và đại diện các khu vực tham gia chủ trì Hội nghị.
Cùng với Hội nghị toàn thể, Hội nghị khoa học tiến hành trong 2 ngày đầu cung cấp cho chúng ta sau hội nghị một kho tri thức khá lớn và đa dạng liên quan của sinh thái biển, với thực trạng và những điều cần làm để thay đổi quản lý và tổ chức khai thác. Tất cả nội dung đó đều có trong kỷ yếu (Proceedings) của sự kiện cùng nhiều tư liệu khác hiện vẫn lưu lại trên các trang thông tin của FAO và các tổ chức/ quốc gia và vùng lãnh thổ liên quan.
Không có chuyên môn sâu cần thiết về sinh học biển và những vấn đề đa dạng của nghề cá thế giới, tôi, thực tình, không thể khai thác kỹ nhiều nội dung các báo cáo khoa học trình bày trong hội thảo khoa học (Scientific Symposium) dù biết rằng đó là những kiến thức rất có ích.
TS. Nguyễn Văn Long đã tham dự hội thảo khoa học này. Báo cáo tổng hợp từ hội thảo khoa học đã khá rõ cho những sự nhìn nhận cần thiết để đóng góp vào Một Chương trình hành động Hội nghị đưa ra cho một nghề cá trách nhiệm toàn cầu, từ những nước có trình độ phát triển cao, đến nghề cá ở những nơi còn manh mún, lạc hậu. Cam kết về sự hợp tác quốc tế để thực thi các giải pháp triệt để dựa vào hệ sinh thái biển và gìn giữ hệ sinh thái này trên toàn cầu đã được thông qua trong Bản Tuyên bố của Hội nghị.
Đã 19 năm từ Hội nghị Reykjavik, nghề cá thế giới đi một chặng đường khá xa nhưng những nhân tố khủng hoảng của nó vẫn tồn tại với những nguy cơ đủ loại. Tuy nhiên, tiếng nói chung từ Hội nghị Reykjavik và các hoạt động tiếp theo vẫn thực sự giá trị và đi vào cuộc sống nghề cá thế giới với những kịch bản mới đa sắc màu. Nổi bật gần đây là cụm các hành động để thực thi chủ tương "Tăng trưởng xanh (BGI)" như tôi đã nhắc đến trong một vài bài báo trước đây.
Trong cụm các hành động đó thì việc loại bỏ hiện tượng khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (viết tắt tiếng Anh là IUU), là thực sự cấp thiết. Nó cần được làm triệt để và được triển khai rốt ráo với những công cụ pháp lý và kỹ thuật hiện đại.
Năm 2008, khi tôi vừa nghỉ công việc, một đoàn của Ủy ban châu Âu (EC) vào Việt Nam để bắt đầu rà soát về IUU trong thủy sản nước ta. Dù đã nghỉ làm việc, tôi có gặp họ vì có vài người trong đoàn đã từng có lúc làm việc với tôi. Lúc đó, mục tiêu của đoàn là để lên chương trình giúp nghề cá nước ta loại bỏ IUU.
Còn bây giờ, sau hơn 10 năm, thời gian qua, các đoàn do EC định kỳ phái tới Việt Nam với chức trách thanh tra việc loại bỏ này, liên quan đến thực hiện những chế tài nhất định gắn với ràng buộc thương mại hải sản. Tôi cũng biết rằng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng như Tổng cục Thủy sản đã nỗ lực để tránh những rủi ro đáng tiếc trước cảnh báo của châu Âu từ kết luận của các đoàn thanh tra của họ.
Tàu cá được trang bị thông tin và công cụ ghi chép hiện tốt hơn trước, hành trình hoạt động trên biển được kiểm soát chặt chẽ hơn, tôi hy vọng cảnh báo “thẻ vàng” đối với nghề cá Việt Nam sẽ có cơ may sớm được châu Âu gỡ bỏ.
Tuy nhiên, một vấn đề bao trùm lên đó là việc bắt tay xây dựng một nghề cá ở Việt Nam không thể có IUU và tương tự theo nguyên tắc “phòng ngừa” từ khâu quản lý và tổ chức sản xuất trên biển. Thực sự đây là một chủ trương lớn lao, mà như khi xây dựng kế hoạch ngành năm 2006, Bộ Thủy sản lúc đó đã chủ trương “Đột phá trong tổ chức lại sản xuất và cải cách hành chính”.
Đoàn Việt Nam tại Hội nghi Reykjavik.
Đưa ra chủ trương đó chúng tôi đã thấy trước rằng, sự đột phá đó chỉ có được khi chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngành theo tiếp cận một nghề cá trách nhiệm trong hệ sinh thái bền vững. Đó cũng là trách nhiệm với ngư dân và gia đình, cộng đồng của họ, cũng như trách nhiệm với đất nước, cho một nghề cá hiệu quả và bền vững. Một nghề cá bền vững chỉ khi có mô hình tăng trưởng đúng, nếu nền tảng của nó là hiểu biết nhiều hơn về sinh thái biển trong vận hành nghề cá và các ngành kinh tế liên quan, các nhà đầu tư và lao động trên biển phải có một dân trí lấy trách nhiệm làm đầu và nghề cá trách nhiệm phải được giảng dạy ngay từ buổi đầu bước chân vào nghề biển. Đây là vấn đề của toàn xã hội, không phải riêng cơ quan quản lý giáo dục hay thủy sản!
Nghề cá trách nhiệm trong hệ sinh thái biển, từ Hội nghị Reykjavik đã làm hình thành một "Ý niệm" mới và "Tiếp cận" mới cho mô hình tiếp theo của nghề cá hiện đại, kể cả ở Việt Nam.
Nhắc đến hai chữ "Ý niệm" và "Tiếp cận", tôi lại muốn nhắc đến nội dung đã viết về HACCP trong chế biến thủy sản. Với "Ý niệm" và "Tiếp cận" được thay đổi nhờ áp dụng HACCP thì ta đã tạo ra những thay đổi đáng kể về quản lý và kiểm soát an toàn vệ sinh thủy sản Việt Nam sau khoảng một thập kỷ. Điều quan trọng là hãy thay đổi chính tổ chức, thể chế và con người làm việc đó đã thì việc lớn lao như vậy mới làm được. Và thực sự ngành thủy sản Việt Nam một thời đã có cơ may và nắm được cơ may đó để làm được cho sự thay đổi này!
Tương tự, "Ý niệm" mới và "Tiếp cận" mới cho nghề cá trách nhiệm áp dụng được để thay đổi mô hình tăng trưởng của nghề cá Việt Nam cũng có thể thực hiện được, dù lâu hơn những điều ta đã làm khi đưa HACCP vào. Điều quan trọng là thực hiện những thay đổi lớn lao về tổ chức, con người và thể chế cần thiết phù hợp với "Ý niệm" và "Tiếp cận" mới cho nghề cá nước ta: Gắn mục tiêu vì cuộc sống và sản xuất của ngư dân với khai thác hiệu quả và hợp lý, giữ gìn hệ sinh thái biển được coi là sống còn.
Đến đây tôi lại chợt nhớ đến ông lão đánh cá Santiago trong tiểu thuyết của nhà văn Hemingway, cuốn "Ông già và biển cả". Một bên sinh kế khó khăn của người làm biển và một bên là tình trạng cạn kiệt nguồn lợi, xấu đi về sinh thái và sự rình rập của những hiểm nguy trên biển.
Những thay đổi của chúng ta để giải quyết hai vế đang nhiều vấn đề này là mục tiêu của những thay đổi của một nghề cá phải hướng tới.




























