Ứng dụng công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản đang trở thành xu thế tất yếu nhằm hướng tới sản xuất bền vững. Công nghệ số giúp các trang trại, hộ nuôi tiết kiệm thời gian, chi phí cũng như nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Tại một số quốc gia trên thế giới, đã xuất hiện nhiều mô hình ứng dụng công nghệ số phục vụ nuôi trồng thủy sản và phát huy hiệu quả cao. Điển hình, robot thủy sản có thể vệ sinh ao, quan sát lưới lồng, loại bỏ xác cá chết, tiêm vacxin tự động, theo dõi sức khỏe và hành vi của cá… Hay ứng dụng drone để giám sát trại nuôi, kiểm tra môi trường nước, phát hiện cá chết, thu thập dữ liệu và phân tích bằng trí tuệ nhân tạo (AI).

Ứng dụng công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản làm giải pháp tất yếu giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Ảnh: Kim Anh.
Tại Việt Nam, đặc biệt là khu vực ĐBSCL, những năm gần đây phát triển mạnh các mô hình ứng dụng công nghệ số vào quan trắc môi trường, đánh giá sức khỏe thủy sản nuôi. Trong đó, lĩnh vực nuôi tôm nước lợ khá phổ biến công nghệ quan trắc tự động ở mô hình nuôi thâm canh và siêu thâm canh, nhằm đánh giá chất lượng nước ao nuôi, giúp người nuôi dễ dàng quan sát các dữ liệu trên điện thoại di động và đưa ra giải pháp quản lý nước phù hợp, nhanh chóng.
Hay Trường Thủy sản (Đại học Cần Thơ) đã phát triển Hệ thống RAS - mô hình kết hợp nuôi tôm và cá để tận dụng dinh dưỡng, xử lý chất thải. Mô hình này đã được tập huấn và chuyển giao cho nhiều nông hộ, doanh nghiệp ở ĐBSCL.
Trường Bách khoa (Đại học Cần Thơ) cũng phát triển công nghệ thu thập thông tin chất lượng nước liên tục bằng cách ứng dụng các cảm biến quan trắc môi trường ao nuôi, thay vì phải lấy mẫu thủ công.
Theo PGS.TS Huỳnh Trường Giang, Phó Hiệu trưởng Trường Thủy sản (Đại học Cần Thơ), cơ hội ứng dụng công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL hiện rất lớn.
Có thể kể đến là sự trợ lực mạnh mẽ từ Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cùng nhiều chính sách hỗ trợ của các bộ ngành và địa phương.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các doanh nghiệp công nghệ trong nước, kết hợp hợp tác quốc tế, hứa hẹn đưa nhiều giải pháp mới đến với người nuôi.
Tuy nhiên, việc phát triển công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản lại đang tồn tại nhiều thách thức. Đầu tiên là chi phí đầu tư công nghệ còn lớn, do đó với những nông hộ nhỏ lẻ rất khó để tiếp cận. Việc kết nối giữa hộ nuôi và doanh nghiệp công nghệ số cũng chưa thật sự bền chặt. Bên cạnh đó, khả năng làm chủ công nghệ của các trang trại, hộ nuôi còn hạn chế. Nhiều giải pháp công nghệ mới chỉ dừng ở quy mô thử nghiệm, khoảng cách giữa nghiên cứu và thương mại hóa còn lớn. Hạ tầng dữ liệu và kết nối internet ở một số vùng nuôi chưa ổn định.
Do đó, để công nghệ số thực sự lan tỏa trong nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL, PGS.TS Huỳnh Trường Giang cho rằng cần đồng bộ nhiều giải pháp. Như hỗ trợ tín dụng và chính sách để nông dân, HTX, doanh nghiệp dễ dàng đầu tư công nghệ. Đào tạo và huấn luyện kỹ năng số cho người nuôi, giúp họ chủ động vận hành, khai thác dữ liệu. Kết nối cung - cầu công nghệ, thúc đẩy hợp tác giữa nhà nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ và người nuôi. Tiêu chuẩn hóa và chứng nhận sản phẩm gắn với truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.