Một trong tứ dị của Sơn Tây xưa
“Sài Sơn chi biển bức. Cấn Xá chi lý ngư. Khánh Hiệp chi kỳ bành. Linh Chiểu chi úng thái” tức dơi ngựa Sài Sơn, cá chép Cấn Xá, cua đồng Khánh Hiệp, rau muống Linh Chiểu là bốn của ngon vật lạ xếp vào hạng Sơn Tây tứ dị xưa, chuyên dùng để tiến vua. Riêng về con cá chép Cấn Xá ở đầm Bung có vây mầu vàng, đuôi đỏ hồng, đầu béo múp, đẹp còn hơn cả cá chép trong tranh lý ngư vọng nguyệt, thịt dai, ngậy mà không ngán, thơm mà không tanh. Mùa đông kho hay nấu cá để sang hôm sau mỡ đóng thành váng dày như nồi thịt đông.
Ông Sỹ Danh Hồng (phải) cùng ông Cấn Hoàng Chiến đang kiểm tra cá khách. Ảnh: Dương Đình Tường.
Mồng hai tháng chạp làng Cấn mở hội người ta bắt con cá chép to nhất, nặng cỡ 5-7 kg để mang lên đình dâng thành hoàng rồi mới “tháo khoán” cho dân ra bắt cá khách ngoài đồng. Giờ mỗi năm dịp mồng hai tháng chạp lệ cúng cá khách ở đình vẫn còn được duy trì. Gọi là cá khách bởi chẳng ai thả giống cả mà hoàn toàn là cá tự nhiên, đến mùa nước tràn qua đê vào đồng, chúng ăn lúa chét, phù du, côn trùng mà tự lớn lên, cuối năm thì thành “hoa ngư”.
Quê tôi có 3 thôn tồn tại kiểu “hoa ngư” như vậy gồm Cấn Thượng, Cấn Hạ, Đĩnh Tú. Cả vùng này ngày trước là đầm lầy, nước lưu quanh năm, mãi sau này khi đắp đê, làm thủy lợi thì môi trường thay đổi, cá khách tuy không ngon bằng khi xưa tiến vua nhưng vẫn ngon hơn ở nơi khác. Mời anh cuối năm về đây, ta bắt cá khách, nấu rồi ăn ngay tại lều cho biết”, ông Nguyễn Văn Giới - nguyên Chủ tịch xã Cấn Hữu cũ nay là xã Kiều Phú mới, TP Hà Nội mời tôi một cách chân tình như vậy.
Cận cảnh một con cá chép Cấn Xá. Ảnh: Dương Đình Tường.
Còn ông Sỹ Danh Hồng, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Cấn Thượng, thì giới thiệu xưa dọc sông Tích từ Ba Vì về đến sông Bùi của Chương Mỹ đều có cá khách nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là ở các xã như Cấn Hữu, Ngọc Liệp, Liệp Tiếp, Tuyết Nghĩa của huyện Quốc Oai cũ. Làng ông có 60 ha đồng ngoài đê, vụ xuân cấy lúa, vụ mùa ngập trắng. Có năm lũ tiểu mãn về sớm từ tháng 4, nhấn chìm hết cả lúa xuân, nước dâng tới tận sới vật của Cấn Thượng.
Đó chính là không gian bao la của cá khách. Hợp tác xã lúc mới thành lập có đội bảo nông quản lý diện tích cá khách này, đến cuối năm họ tháo nước, đặt đơm ở miệng cống lấy cá về, còn trên đồng thì “tháo khoán” cho dân thoải mái kiếm. Hơn 40 năm trước khi có khoán hộ thì diện tích đồng ngoài đê này trong đó có 49,6 ha bao bằng đê bối, vụ mùa được đấu thầu theo kiểu bỏ phiếu kín, ai trả cao nhất thì trúng. Tiền đấu thầu này nộp về hợp tác xã, phần để trả sản cho dân, phần để cải tạo lại đồng ruộng, đường xá...
Gặp chủ thầu diện tích cá khách 49,6 ha mỗi vụ
18 năm trước, ông Cấn Hoàng Chiến đã thắng cuộc đấu thầu cá khách đầu tiên trong đời với mức giá 30 triệu đồng, xong việc phải mang hợp đồng lên thẳng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để vay tiền. Bờ bao lúc đó còn thấp, lại bằng đất nên mỗi năm cánh đồng Cọc ngoài đê ngập 2-3 lần, mỗi lần kéo dài 10-15 ngày, cá từ sông Tích vào, nhiều nhất là các loại trắm, chép. Nhờ vậy, chủ thầu hoàn toàn không phải thả cá giống mà chỉ dựng 2 cái lều ở 2 đầu cánh đồng để cắt cử người trông, chờ đợi vào trời ban lộc.
Bắt đầu từ tháng 10 ông Chiến tháo nước rồi đặt đơm ở miệng cống để thu cá khách cho tới tháng 12. Đồng có 5 khu với bờ bao riêng, phải tháo nước ở từng khu để khu khác vẫn còn nước, tuyệt đối không tháo hết khiến đất bị nứt nẻ, khó canh tác ở vụ lúa sau. Giàu phù sa nên ở đồng Cọc đến vụ dân không phải cày bừa gì cả mà chỉ be bờ, giữ nước rồi cấy luôn, lúa cứ tốt bời bời.
Cá khách thu được từ loại nhỏ như ngón tay như cá mương đến to, nặng 5-7 kg như cá chép, trắm, trôi. Con nào con nấy thân thon dài, vảy sáng bóng, thịt chắc và thơm, bán ngay tại miệng cống giá cũng cao hơn cá nuôi khoảng 10-15%. Hồi đầu, đồng Cọc không có cá rô Phi, cá dọn bể, ốc bươu vàng nhưng sau đó mấy năm chúng bắt đầu xuất hiện mỗi lúc một nhiều vì chẳng có ai ăn, nhất là ốc bươu vàng, cá dọn bể, còn rô Phi loại bằng 2-3 ngón tay đã đẻ thì chỉ để dùng làm thức ăn gia súc hay ủ phân.
Ông Cấn Hoàng Chiến bên cánh đồng thầu thu cá khách. Ảnh: Dương Đình Tường.
Mươi năm về trước, ông Chiến bắt đầu thả thêm cá giống, mỗi vụ khoảng 50-70 triệu đồng gì đó để cầu may. Năm nào không bị ngập, cá nhiều thì thắng lớn, còn năm nào ngập là cá thả trong đồng mình đi theo nước lạ hết nhưng cá nơi khác lại đến đồng mình. Cuối năm tổng kết ông thu được vài tấn cá dọn bể, không bán được đã đành phải mất công đóng bao, đào hố chôn; vài chục tấn cá rô Phi loại nhỏ bán với giá 2.000đ/kg, dăm tấn cá chép bán với giá 60.000đ/kg, đôi tạ tôm bán với giá 200.000đ/kg.
Sau khi trừ đi mức đấu thầu 200 triệu đồng/vụ như hiện nay, năm nào lãi nhiều ông được 200 triệu đồng, lãi ít được 100 triệu đồng, nhưng cũng có năm như 2024 lại lỗ. Đó là còn chưa tính khi đấu thầu xong ông thả 1 vạn vịt để chúng ăn thóc rơi vãi trên đồng, lúc nước dâng ngập hết lúa chét cũng là thời điểm vịt được 50 ngày tuổi, béo mầm, cho thu hoạch. Trong quá trình nuôi như thế chỉ 15 ngày trước khi bán ông mới bổ sung thêm tí cám công nghiệp nên lợi nhuận mỗi vụ cũng được khoảng 100 triệu đồng nữa. Một điều khá thiệt thòi là vịt nuôi trên cánh đồng cá khách thịt thơm, ngon nhưng giá bán chỉ ngang với vịt nuôi công nghiệp vì mẫu mã xấu hơn.
Vừa nói ông Chiến vừa lấy xe máy dẫn tôi đi quanh cánh đồng Cọc, dài dễ 4-5 km nên 15-20 phút cũng chưa hết. Nhiều đoạn đê bối bằng bê tông vết bùn non in rõ dấu, có chỗ vẫn còn nước tràn qua, cá khách từ đồng làng này sang đồng làng khác cứ thế lách như rô đồng gặp mưa rào vậy.
Mới chỉ mấy ngày trước tỉnh lộ 421 còn chìm sâu cả mét, công an giao thông phải cắm biển cấm, nay xe đã chạy bon bon, bóng đổ dài trên mặt nước loang loáng. Ông Chiến bắt một con cá chép có thân dài, vây mầu vàng, đuôi đỏ hồng-những đặc điểm của cá chép ta, giờ đã thành của hiếm bởi sự xâm chiếm của đủ loại chép lai, lưng gù, thân múp. Những chiếc vảy của nó cứ lấp lánh dưới ánh mặt trời như nhắc nhớ tôi về lời mời trở lại đồng Cọc vào dịp cuối năm, thời điểm con cá khách béo nhất, thơm ngon nhất.
Mô hình một vụ lúa một vụ cá ở các xã thuộc huyện Quốc Oai cũ ngoài đem lại lợi nhuận từ việc bán cá còn giảm được tình trạng cỏ dại và mầm bệnh cho vụ lúa xuân năm sau; giảm chi phí bừa cấy (trung bình ở mức 150.000-200.000đ/sào) và chi phí phân bón do một lượng phân cá rất lớn để lại ở trên đồng.





























