Thời thiếu đói và gian khổ
Tôi trở lại vùng Tứ giác Long Xuyên vào mùa nước nổi, khi sóng nước đã dâng ngập những cánh đồng, mang theo phù sa, cá tôm và ký ức của một thời gian khó. Mảnh đất từng được gọi bằng những cái tên buồn: “vùng khỉ ho cò gáy”, “nước mặn đồng chua”, “cánh đồng chết”… nay đã khoác lên mình màu xanh no ấm. Những điều tưởng như huyền thoại ấy vẫn còn trong ký ức của những bậc cao niên, những người đã chứng kiến trọn tám thập kỷ qua.
Cơ giới hóa thời kỳ đầu khai hoang mở đất vùng Tứ giác Long Xuyên. Ảnh: Trung Chánh.
Tứ giác Long Xuyên là vùng đất rộng hơn 470 ngàn ha, bốn cạnh được giới hạn bởi biên giới Việt Nam – Campuchia, vịnh Thái Lan, kênh Cái Sắn và sông Hậu, với bốn “đỉnh góc” là các đô thị Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá và Hà Tiên. Trước kia, rừng tràm, cây tạp và cỏ dại chiếm ưu thế ở Tứ giác Long Xuyên, chỉ có lúa mùa nổi mọc một vụ trong năm - thứ duy nhất nuôi sống chim chóc và con người.
Làm đất bằng máy trước khi gieo cấy lúa trên những cánh đồng rộng mênh mông ở vùng tứ giác Long Xuyên. Ảnh: Trung Chánh.
Là vùng đất rộng, người thưa, giàu tiềm năng nhưng chưa được khai phá, nông dân trong vùng canh tác phụ thuộc vào “nước trời”, chịu cảnh phèn, mặn vây quanh, mùa nắng nứt đất, mùa mưa nước tràn đồng, sản xuất bấp bênh. Có những năm lúa mất trắng, cả vùng đói triền miên. Cảnh giáp hạt kéo dài, người dân phải sống nhờ gạo cứu đói hoặc viện trợ quốc tế.
Trong căn nhà khang trang ở Nam Thái Sơn (nay thuộc xã Hòn Đất, tỉnh An Giang), ông Nguyễn Văn Hiệu (89 tuổi) kể lại bằng giọng khàn đục: “Ngày đó ai muốn làm thì cứ phát hoang mà cấy, đất nhiều mà người ít. Nhà tôi bảy miệng ăn, mỗi năm chỉ làm một vụ lúa mùa, được hai giạ một công là mừng lắm. Mất mùa thì gạo không đủ tới Tết, Nhà nước phải phát gạo cứu đói”.
Những căn nhà tường khang trang được xây dựng bên cánh đồng lúa ở vùng Tứ giác Long Xuyên. Ảnh: Trung Chánh.
Những lời kể giản dị ấy gợi lại một giai đoạn dài mà nông dân vùng Tứ giác Long Xuyên chỉ biết cắm cúi bám đất, gieo mạ, gặt lúa trong khốn khó. Nhưng giữa gian nan, vẫn có một khát vọng cháy bỏng được ươm lên, đó là tự lo được bát cơm của mình, thoát khỏi cảnh xin viện trợ lương thực.
Khai hoang mở đất - kỳ tích từ thủy lợi
Từ sau năm 1975, vùng Tứ giác Long Xuyên bước vào công cuộc hồi sinh. Trước đó, trong giai đoạn 1945 - 1975, nơi đây diện tích trồng lúa tuy lớn nhưng năng suất thấp do chiến tranh và thiếu hệ thống thủy lợi. Chính thực tế ấy đã gợi mở một tầm nhìn mới: muốn làm nông nghiệp phải bắt đầu từ nước.
Kênh T5 được An Giang đặt tên là kênh Võ Văn Kiệt, dòng kênh dẫn nguồn khai mở vùng Tứ giác Long Xuyên. Ảnh: Trung Chánh.
Bước sang thập niên 1980 - 1990, khi công cuộc đổi mới lan tỏa đến từng thửa ruộng, hàng vạn nông dân trở lại vùng hoang vu này để khai hoang, mở đất. Những con kênh lớn nhỏ nối nhau chằng chịt, đưa nước ngọt về đồng. Cùng với đó, hàng loạt công trình trọng điểm được Trung ương đầu tư, hệ thống thoát lũ ra biển Tây, đê và cống ngăn mặn ven biển đã mở ra kỷ nguyên mới cho sản xuất nông nghiệp của cả vùng.
Từ vùng đất hoang hóa, Tứ giác Long Xuyên đã được khai phá với những cánh đồng trù phú, trở thành vựa lúa của cả nước. Ảnh: Trung Chánh.
Kênh đào đến đâu, ruộng lúa mở theo tới đó. Người dân mạnh dạn đưa các giống lúa ngắn ngày, năng suất cao vào sản xuất. Nhiều nơi từ một vụ chuyển lên hai, ba vụ. Chỉ tính riêng tỉnh Kiên Giang (cũ), nếu năm 1999 sản lượng lúa chỉ đạt hơn 2 triệu tấn thì đến năm 2006 đã vượt mốc 3 triệu tấn, được xem là bước nhảy thần kỳ của ngành nông nghiệp. Nông dân không còn đói mà bắt đầu dư lúa bán ra thị trường.
Cán bộ khuyến nông đồng hành với nông dân vùng Tứ giác Long Xuyên tạo nên những mùa vàng bội thu. Ảnh: Trung Chánh.
Cùng với hệ thống thủy lợi, các chương trình khuyến nông, cơ giới hóa và thay giống được triển khai đồng bộ. Tổ kinh tế - kỹ thuật nông nghiệp phủ kín khắp xã, phường. Đây là mô hình “đặc sản” của Kiên Giang (cũ), cán bộ khuyến nông được đưa về cơ sở bám ruộng, hướng dẫn kỹ thuật, xử lý sâu bệnh tại chỗ. Nhờ vậy, nhiều năm liền địa phương không xảy ra dịch hại lớn, năng suất lúa duy trì ở mức 6 - 7 tấn/ha/vụ, đưa tổng sản lượng lập kỷ lục với gần 4,5 triệu tấn vào năm 2013.
Song song đó, phong trào xã hội hóa giống lúa và cơ giới hóa nông nghiệp giúp nông dân chủ động sản xuất. Máy gặt, máy sấy, máy cày hiện đại giúp giảm thất thoát, nâng giá trị hạt gạo. Trên 90% diện tích gieo sạ bằng giống đạt chuẩn xuất khẩu, đưa Tứ giác Long Xuyên trở thành “cánh đồng vàng” của vùng ĐBSCL.
Tại vùng Tứ giác Long Xuyên, có rất nhiều nông dân sở hữu hàng chục ha đất, mỗi vụ sản xuất ra cả chục ngàn giạ lúa. Ảnh: Trung Chánh.
Từ hạt lúa cứu đói, giờ đây hạt lúa đã trở thành hàng hóa làm giàu, là biểu tượng của sức sống mới. Trên nền đất từng hoang hóa, những mái nhà ngói đỏ, những cánh đồng nối nhau không dứt đã thay cho hình ảnh rừng tràm, cỏ dại thuở xưa.
Hạt gạo xanh của kỷ nguyên mới
Bước vào giai đoạn sáp nhập An Giang - Kiên Giang thành tỉnh An Giang mới, vùng Tứ giác Long Xuyên như được mở rộng tầm nhìn phát triển. Không gian sản xuất nông nghiệp trải dài từ đầu nguồn sông Hậu đến tận bờ biển Tây, hình thành chuỗi sinh thái khép kín: lúa - cá - tôm - rừng - biển - đảo.
Những cánh đồng hiện đại tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao được thực hiện tại vùng Tứ giác Long Xuyên. Ảnh: Trung Chánh.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức cho biết: “Sau sáp nhập, An Giang có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn nhất ĐBSCL. Điều kiện tự nhiên thuận lợi giúp tỉnh phát triển toàn diện cả nông nghiệp, kinh tế biển, công nghiệp chế biến và dịch vụ”.
Riêng cây lúa, An Giang hiện gieo trồng trên 1,3 triệu ha/năm, sản lượng 8,7 - 8,8 triệu tấn, trở thành trung tâm lúa gạo lớn nhất cả nước. Đặc biệt, tỉnh đang dẫn đầu cả vùng về triển khai Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp với hơn 150.000 ha đạt tiêu chí xanh.
An Giang hiện là tỉnh dẫn đầu cả vùng về triển khai Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp với hơn 150.000 ha đạt tiêu chí xanh, chủ yếu thực hiện tại vùng Tứ giác Long Xuyên. Ảnh: Trung Chánh..
Nhiều mô hình mới được áp dụng có hiệu quả như lúa - tôm, lúa - cá, canh tác rau màu và cây ăn trái theo VietGAP, GlobalGAP, ứng dụng cảm biến tưới nhỏ giọt, quản lý nước thông minh. Nhờ đó, đã giảm được khoảng 20% chi phí vật tư, tiết kiệm 30% nước tưới, tăng năng suất 10 - 15%. Kinh tế hợp tác phát triển năng động, cả tỉnh có gần 700 hợp tác xã và hơn 3.500 tổ hợp tác, trở thành “xương sống” của chuỗi liên kết nông sản.
Cùng với đó, tỉnh chú trọng phát triển chuỗi chế biến sâu, thương mại điện tử, du lịch nông nghiệp, gắn sản phẩm với chỉ dẫn địa lý và thương hiệu vùng. Nông nghiệp không chỉ là sinh kế mà đang trở thành trụ cột của kinh tế xanh, kinh tế tri thức.
Đường giao thông nông thôn đầy sức sống xuyên qua những cánh đồng trù phú ở vùng Tứ giác Long Xuyên. Ảnh: Trung Chánh.
Hôm nay, đi dọc vùng Tứ giác Long Xuyên, đâu đâu cũng là những cánh đồng lúa mênh mông và những nông dân hiện đại láy máy cày, máy cấy, phun thuốc, sạ phân bằng máy bay nông nghiệp, thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp. Họ là thế hệ nông dân mới đã gieo mầm cho “kỳ tích từ đất” để tiếp nối giấc mơ của cha ông - biến vùng đất từng phải xin viện trợ lương thực thành vựa lúa của cả nước.
Giữa dòng chảy đổi thay của thời cuộc, Tứ giác Long Xuyên là minh chứng cho ý chí quyết tâm, “có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Tứ giác Long Xuyên hôm nay không chỉ là vựa lúa dư sức nuôi sống hàng triệu người mà còn nuôi một khát vọng lớn: đưa hạt gạo Việt Nam vươn ra thế giới bằng giá trị xanh, sạch và bền vững.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang Lê Hữu Toàn chia sẻ: “Nông dân bây giờ không còn đi tìm hạt gạo để đủ ăn mà là hạt gạo xanh - sạch, có câu chuyện và thương hiệu. Từ vựa lúa của đất nước, An Giang hướng tới trung tâm lúa gạo chất lượng cao của khu vực”.



























