| Hotline: 0983.970.780

Từ sản xuất tự phát đến liên kết chuỗi giá trị hiện đại

Thứ Hai 10/11/2025 , 19:01 (GMT+7)

Nghị định số 98/2018/NĐ-CP đã thúc đẩy hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị với sự tham gia của hơn 300.000 hộ nông dân và gần 2.000 hợp tác xã.

Bước chuyển căn bản trong tư duy liên kết nông nghiệp

Sau hơn 6 năm triển khai, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đã tạo ra bước chuyển căn bản trong tư duy và cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Từ chỗ liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp còn mang tính tự phát, thiếu khung pháp lý và ít được kiểm chứng, đến nay, mô hình liên kết đã trở thành phương thức phổ biến, được Nhà nước, doanh nghiệp và hợp tác xã đồng thuận thúc đẩy như một giải pháp trọng tâm trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

Theo tổng hợp của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến cuối năm 2024, cả nước đã hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị nông sản, với hơn 300.000 hộ nông dân tham gia thông qua gần 2.000 hợp tác xã và tổ hợp tác nông nghiệp. Tổng giá trị vốn đầu tư huy động từ các bên trong các mô hình liên kết ước đạt trên 20.000 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ vốn đối ứng của doanh nghiệp chiếm 50-60%, thể hiện rõ xu hướng chia sẻ rủi ro và lợi ích trong sản xuất nông nghiệp hiện đại. Khoảng 70% các mô hình liên kết có sự tham gia của hợp tác xã trong vai trò đầu mối tổ chức sản xuất, ký kết hợp đồng, giám sát chất lượng và phối hợp tiêu thụ sản phẩm.

Nhà máy đóng gói của Vina T&T ở Bến Tre. Ảnh: Vina T&T.

Nhà máy đóng gói của Vina T&T ở Bến Tre. Ảnh: Vina T&T.

Các mô hình liên kết đã được triển khai trên hầu hết các lĩnh vực sản xuất chủ lực của Việt Nam. Trong ngành lúa gạo, nhiều địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long như Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp đã hình thành các mô hình liên kết tiêu biểu giữa doanh nghiệp Trung An với hợp tác xã sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn SRP, xuất khẩu sang Nhật Bản. Ở lĩnh vực trái cây và rau quả, mô hình của Nafoods tại Nghệ An và Vina T&T tại Sơn La cho thấy sự thành công khi doanh nghiệp cùng hợp tác xã xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn GlobalGAP và truy xuất điện tử, đáp ứng yêu cầu của thị trường châu Âu và Hoa Kỳ. Trong chăn nuôi, các tập đoàn như TH True Milk, CP Việt Nam, De Heus, Japfa đã phát triển mô hình liên kết khép kín, áp dụng công nghệ cao và quản trị tuần hoàn, giúp nâng cao giá trị gia tăng và giảm phát thải.

Không chỉ tạo ra các mô hình điển hình, Nghị định số 98 còn góp phần hình thành "văn hóa hợp tác" mới trong nông nghiệp Việt Nam. Ở nhiều địa phương, nông dân đã chủ động liên kết, sản xuất theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, thay vì tự sản xuất và phụ thuộc vào thương lái như trước. Các hợp tác xã ngày càng thể hiện vai trò là trung gian tổ chức, vừa đại diện lợi ích của nông dân, vừa là đối tác tin cậy của doanh nghiệp. Nhờ cơ chế hỗ trợ từ Nghị định, nhiều hợp tác xã được đầu tư hạ tầng, kho bảo quản, máy sấy, hệ thống truy xuất và được đào tạo nâng cao năng lực quản lý. Cùng với đó, nhiều địa phương đã hình thành vùng nguyên liệu lớn, gắn sản xuất với truy xuất nguồn gốc, cấp mã vùng trồng, tạo điều kiện để nông sản tham gia thị trường xuất khẩu chính ngạch.

Một điểm nổi bật khác là việc kết hợp giữa chính sách liên kết và chương trình phát triển OCOP, vùng nguyên liệu và các đề án chuyên ngành. Nhờ sự đồng bộ này, nhiều chuỗi giá trị nông sản đã được hoàn thiện cả về quy mô sản xuất, tiêu chuẩn kỹ thuật và thương hiệu địa phương, góp phần vào mục tiêu chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng giá trị và bền vững.

Tác động của chính sách liên kết

Những kết quả đạt được từ việc triển khai Nghị định 98 không chỉ mang tính định lượng, mà còn có ý nghĩa sâu sắc về chất lượng và thể chế phát triển. Trước hết, chính sách đã góp phần thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị nông sản chủ lực ở cấp quốc gia và địa phương. Các ngành hàng như lúa gạo, cà phê, trái cây, thủy sản, chăn nuôi, lâm sản đều có bước phát triển rõ nét về quy mô vùng nguyên liệu và tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất. Các chuỗi này đã giúp giảm sự phụ thuộc vào thương lái, mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là vào các nước có yêu cầu khắt khe như Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ.

Về mặt kinh tế, nông dân tham gia các mô hình liên kết được hưởng lợi trực tiếp thông qua tăng thu nhập từ 10-20% so với sản xuất đơn lẻ, nhờ giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất, đảm bảo đầu ra ổn định và có hợp đồng bao tiêu rõ ràng. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng nâng cao hiệu quả sản xuất, kiểm soát chất lượng nguyên liệu, giảm rủi ro thị trường và tăng uy tín thương hiệu. Chính quyền địa phương có thêm công cụ để quản lý vùng sản xuất, truy xuất nguồn gốc và hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp địa bàn.

Hoạt động liên kết, quảng bá trong tiêu thụ nông sản. Ảnh: Dân Việt.

Hoạt động liên kết, quảng bá trong tiêu thụ nông sản. Ảnh: Dân Việt.

Về mặt xã hội, Nghị định 98 đã tạo dựng được niềm tin và cơ chế phối hợp thực chất giữa doanh nghiệp - hợp tác xã - nông dân, vốn là khâu yếu nhất trong mô hình phát triển nông nghiệp của Việt Nam trước đây. Khi các bên cùng chia sẻ thông tin và lợi ích, vai trò của hợp tác xã trở nên rõ ràng hơn, không còn là hình thức trung gian hành chính mà trở thành tác nhân kinh tế thực sự trong chuỗi giá trị. Mô hình liên kết cũng góp phần giảm thiểu rủi ro trong tiêu thụ nông sản, hạn chế tình trạng “giải cứu nông sản” từng diễn ra phổ biến trước đây.

Ở góc độ quản lý nhà nước, chính sách này đã tạo điều kiện để các cơ quan quản lý thực hiện chuyển đổi từ tư duy điều hành hành chính sang điều phối theo chuỗi giá trị, tức là không can thiệp vào hoạt động sản xuất cụ thể, mà tập trung kiến tạo môi trường và cơ chế khuyến khích hợp tác tự nguyện, bình đẳng giữa các bên. Đây là một thay đổi có tính chất thể chế, thể hiện bước tiến quan trọng trong quản lý nông nghiệp của Việt Nam.

Một số hạn chế cần tháo gỡ

Dù đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, quá trình triển khai Nghị định 98 vẫn bộc lộ một số hạn chế cơ bản, khiến hiệu quả của liên kết chưa tương xứng với tiềm năng và mục tiêu đặt ra. Vấn đề lớn nhất hiện nay là tính bền vững của liên kết chưa cao. Ở nhiều nơi, mô hình liên kết vẫn dừng lại ở hình thức hợp đồng mua - bán sản phẩm, thiếu cam kết dài hạn và cơ chế ràng buộc về đầu tư, kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng. Khi giá thị trường biến động, cả doanh nghiệp lẫn nông dân đều có thể “bẻ kèo”, dẫn đến liên kết đứt gãy. Điều này cho thấy tư duy hợp tác trong sản xuất nông nghiệp vẫn chưa thực sự thấm sâu, còn mang nặng tính ngắn hạn.

'Nghị định 98 bộc lộ một số điểm yếu về tính bền vững của chuỗi liên kết'. Ảnh: Báo Hanoimoi.

"Nghị định 98 bộc lộ một số điểm yếu về tính bền vững của chuỗi liên kết". Ảnh: Báo Hanoimoi.

Thứ hai, quy trình thủ tục hỗ trợ còn phức tạp và hành chính hóa. Nghị định 98 yêu cầu các chủ thể liên kết phải lập “dự án liên kết”, trình thẩm định, phê duyệt ở nhiều cấp, khiến doanh nghiệp và hợp tác xã đặc biệt là các đơn vị nhỏ khó tiếp cận nguồn hỗ trợ. Mặc dù có chính sách hỗ trợ tư vấn tối đa 300 triệu đồng/dự án, nhưng việc triển khai còn hạn chế, thiếu mạng lưới tư vấn chuyên nghiệp, dẫn đến nhiều mô hình không đủ năng lực lập hồ sơ, bỏ lỡ cơ hội hưởng chính sách.

Thứ ba, thiếu hạ tầng số và công cụ quản lý truy xuất nguồn gốc là điểm nghẽn đáng kể. Hầu hết các địa phương chưa có nền tảng số dùng chung để quản lý hợp tác xã, hợp đồng liên kết, vùng nguyên liệu và phát thải carbon. Dữ liệu về sản lượng, chất lượng và doanh thu còn phân tán, thiếu chuẩn hóa, khiến việc giám sát hiệu quả chính sách và nhân rộng mô hình còn chậm. Điều này cũng khiến liên kết chưa gắn được với xu thế chuyển đổi số và thương mại nông sản minh bạch toàn cầu.

Cuối cùng, năng lực tổ chức và quản trị của hợp tác xã còn yếu, doanh nghiệp thiếu động lực đầu tư dài hạn. Phần lớn hợp tác xã quy mô nhỏ, thiếu vốn, thiếu cán bộ kỹ thuật và kỹ năng quản trị hiện đại. Doanh nghiệp lại gặp khó trong việc tiếp cận tín dụng và thiếu cơ chế bảo hiểm rủi ro, nên chưa mặn mà trong đầu tư hạ tầng và vùng nguyên liệu lâu dài. Chính sách hỗ trợ hiện hành chủ yếu tập trung vào giai đoạn đầu tư, thiếu cơ chế “hỗ trợ theo kết quả” (output-based aid), nên chưa tạo được động lực duy trì liên kết bền vững.

Như vậy, những hạn chế trên phản ánh một thực tế: liên kết trong nông nghiệp Việt Nam tuy đã hình thành về lượng, nhưng chưa phát triển vững chắc về chất. Để liên kết trở thành trụ cột của nền nông nghiệp hiện đại, Việt Nam cần một khung chính sách mới linh hoạt hơn, gắn kết hơn với công nghệ số, tiêu chuẩn xanh và cơ chế chia sẻ rủi ro, qua đó biến hợp tác, liên kết thành "chuẩn mực" của sản xuất nông nghiệp trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu.

Tổng thể, có thể thấy rằng hợp tác và liên kết nông nghiệp ở Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển năng động, nhưng chưa ổn định và đồng bộ. Các mô hình liên kết theo cơ chế thị trường và các chính sách như Nghị định 98 đã tạo nền tảng ban đầu quan trọng, nhưng để liên kết trở thành “xương sống” của nền nông nghiệp hiện đại, cần tiếp tục hoàn thiện cả ba khía cạnh: thể chế – năng lực tổ chức – và hạ tầng số. Đây chính là điểm xuất phát để chuyển sang phần tiếp theo – đánh giá kết quả cụ thể của việc triển khai Nghị định 98/2018/NĐ-CP trong sáu năm qua.

Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn

Xem thêm
Đắk Lắk yêu cầu tiêm vaccine cúm gia cầm đạt trên 80% tổng đàn

UBND tỉnh Đắk Lắk yêu cầu các sở, ban, ngành, địa phương và đơn vị liên quan khẩn trương thực hiện các nội dung nhằm chủ động ngăn chặn các ổ dịch cúm gia cầm.

Phát triển trồng trọt bền vững: Từ nhận thức đến hành động xanh

Ngành trồng trọt Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động xanh, hướng tới nền nông nghiệp bền vững, ít phát thải và thân thiện với môi trường.

Đổi mới công tác khuyến nông theo tư duy kinh tế nông nghiệp xanh

Đổi mới công tác khuyến nông theo tư duy kinh tế nông nghiệp là yêu cầu tất yếu, góp phần tri thức hóa nông dân, thúc đẩy sản xuất xanh và phát triển bền vững.

Cần một 'hệ sinh thái chính sách' cởi mở hơn cho khoa học

Ngày xưa làm nghiên cứu rất vất vả, từ lãnh đạo đến cán bộ phải xắn quần lội ruộng để chọn từng cây lúa, cây ngô. Nhưng cũng chính nhờ vậy mà các nghiên cứu mang tính thực tiễn rất cao...

Hơn 4.000 tấn muối Sa Huỳnh tan chảy vì bão số 13

QUẢNG NGÃI Diêm dân xót xa khi ra đồng muối Sa Huỳnh. Muối tan chảy trước những gương mặt buồn thiu cùng tiếng thở dài nuối tiếc...

GS.TS Lê Đình Khả - 'Cha đẻ' của cây keo lai giữa mùa đất khát

Chiều cuối thu, Ba Vì phủ một màu xanh trầm. Trong khu thí nghiệm cũ, những hàng keo thẳng tắp vươn lên giữa sương sớm.

Từ sản xuất tự phát đến liên kết chuỗi giá trị hiện đại