Cây giữ đất, giữ rừng, nay thành sinh kế xanh
Sau hơn 4 giờ đồng hồ di chuyển, đoàn chúng tôi đặt chân tới Công ty Cổ phần Bamboo King Vina, nằm trên địa bàn xã Linh Sơn - một vùng đất còn nhiều gian khó của tỉnh Thanh Hóa. Ấn tượng đầu tiên hiện ra trước mắt tôi là khuôn viên nhà máy rộng mở, xanh mát, chẳng khác nào một khu nghỉ dưỡng 5 sao.
Ông Lưu Tiến Dũng, Giám đốc kỹ thuật Bamboo King Vina dừng lại trước vòng tròn tre đặt ngay cổng vào và giới thiệu: "Biểu tượng này được thiết kế giống logo của Bamboo King Vina, những thanh tre kết nối thành vòng tròn như vòng tay lớn, gửi gắm thông điệp gắn kết và tinh thần đoàn kết của người Việt".

Một góc nhà máy Bamboo King Vina cùng các sản phẩm được sản xuất từ tre. Ảnh: Hồng Thắm.
Nhà máy được xây dựng trên diện tích 15 ha, trong đó 7,5 ha là khu xưởng sản xuất, tập trung vào các sản phẩm từ tre như: Vật liệu xây dựng, ván ghép thanh, nội - ngoại thất, cùng đồ gia dụng như khay, hộp đựng thuốc… cung cấp cho nhiều đối tác lớn, trong đó có cả IKEA - Tập đoàn bán lẻ nội thất lớn nhất thế giới có trụ sở tại Thụy Điển.
Ông La Quân Hoàng, Phó Tổng Giám đốc Bamboo King Vina cho biết, nhà máy chính thức hoạt động từ tháng 12/2024, hiện có 260 lao động và đặt mục tiêu đạt 1.500 người khi chạy đủ công suất. Ngoài ra, chuỗi hoạt động trồng, khai thác và cung ứng nguyên liệu tre cho nhà máy cũng sẽ tạo thêm hàng nghìn việc làm gián tiếp.
“Việc xây dựng nhà máy tại một địa bàn nghèo, miền núi của tỉnh Thanh Hóa không chỉ nhằm phát triển sản xuất mà còn hướng đến tạo việc làm, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Mỗi cơ hội việc làm mới ở nhà máy cũng đồng nghĩa với một gia đình thêm hy vọng thoát nghèo”, ông Hoàng nói thêm.

Muốn xây dựng được một ngành tre có giá trị ở Việt Nam thì bắt buộc phải có sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và các cơ quan liên quan. Ảnh: Hồng Thắm.
Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Chủ tịch UBND xã Linh Sơn, tỉnh Thanh Hóa cho biết, trong công tác giảm nghèo, sau khi bộ máy chính quyền xã mới đi vào hoạt động, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn 6,5%, hộ cận nghèo còn 20,8%.
Trước đó, nhờ các chính sách hỗ trợ theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, nhiều hộ dân đã có cơ hội thoát nghèo bền vững.
Ông Sơn chia sẻ, tre luồng thực sự là “cây xóa đói giảm nghèo”, bởi chỉ cần bán vài cây tre là người dân đã có thể trang trải những khoản chi phí cần thiết. Tuy vậy, ông cũng trăn trở khi giá trị kinh tế từ tre còn thấp, giống bị thoái hóa, ít được cải tạo, trồng lại.
Giấc mơ làm giàu và nâng tầm tre Việt
Ông Sơn kỳ vọng, cây tre có thể mang lại cuộc sống sung túc hơn cho người dân nơi đây. Theo ông, cần có chính sách đồng bộ như ở Trung Quốc, mạnh dạn loại bỏ giống tre kém chất lượng, thay thế bằng giống tre giá trị cao. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, vấn đề này vẫn gặp phải hai rào cản lớn, một là khoa học kỹ thuật, hai là nguồn vốn để người dân có thể tiếp cận giống tre chất lượng.
Tre luồng cần 3 - 5 năm mới cho khai thác, 7 năm trở đi mới đại trà, khác hẳn cây mía, cây sắn chỉ 1 năm đã thu hoạch. Do đó, Nhà nước cần đầu tư vốn quy mô lớn, thay vì hỗ trợ nhỏ lẻ. Ông Sơn đưa ví dụ, để chuyển đổi 1 ha sang trồng tre thô hay còn gọi là tre khổng lồ - một giống tre chất lượng tốt của Trung Quốc cần khoảng 70 triệu đồng tiền giống - một gánh nặng lớn đối với nông dân. Vì vậy, cần đầu tư cho các viện nghiên cứu lai tạo giống bằng công nghệ nuôi cấy mô để có giống tốt, giá hợp lý.

Không chỉ dừng ở mục tiêu thoát nghèo, lãnh đạo xã Linh Sơn kỳ vọng cây tre sẽ nâng cao giá trị kinh tế, đem lại cuộc sống sung túc hơn cho người dân. Ảnh: Hồng Thắm.
Cùng quan điểm, ông Hoàng cho hay, muốn xây dựng được một ngành tre có giá trị cao ở Việt Nam phải có sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và các cơ quan liên quan. Giải pháp căn cơ là phục tráng lại rừng tre, bởi chỉ khi cây tre phát triển to, khỏe mới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Theo ông Hoàng, phần lớn các rừng tre ở Thanh Hóa nói chung và Lang Chánh nói riêng đều đã tồn tại hàng chục năm, có rừng 60 - 70 năm tuổi. Cây tre phát triển hoàn toàn tự nhiên, theo quy luật “tre già măng mọc”. Người dân hầu như không trồng mới, cũng ít chăm sóc, tỉa dặm mà chỉ dựa vào tự nhiên. Tập quán khai thác cũng “coi tre là lộc trời”, cứ đến mùa hay khi cần tiền thì vác dao lên rừng chặt, không theo quy hoạch hay kỹ thuật nào cả.
Thế nên ông Hoàng nhấn mạnh, muốn cây tre thực sự có giá trị, người dân phải thay đổi thói quen trồng, chăm sóc và khai thác. Nhưng đây là tập quán lâu đời, rất khó để thay đổi nếu không có sự hỗ trợ từ Nhà nước.
Ông La Quân Hoàng, Phó Tổng Giám đốc Công ty Bamboo King Vina nói: “Cần có chính sách hỗ trợ kinh phí, tuyên truyền để bà con nhận thức được tầm quan trọng của việc chăm sóc tre. Bên cạnh đó là hỗ trợ phân bón, đưa nhà khoa học về tận nơi hướng dẫn kỹ thuật, xây dựng các mô hình thí điểm. Khi có mô hình tiên phong mang lại hiệu quả rõ ràng, bà con nhìn thấy lợi ích thực tiễn thì mới sẵn sàng làm theo”.