| Hotline: 0983.970.780

Chuyện giảm nghèo ở vùng biên giới: [Bài 2] Làng Nú có đơn xin thoát nghèo

Thứ Năm 13/11/2025 , 08:01 (GMT+7)

Làng Nú hôm nay đã khoác lên mình màu xanh của cao su, cà phê, của lúa nước. Cái nghèo ngự trị ngàn năm ở làng Nú, giờ chỉ còn là câu chuyện cổ.

“Đủ ăn là may lắm rồi”

Siu H’Phích nói với chúng tôi như vậy, về làng Nú thuộc xã biên giới Ia Nan, tỉnh Gia Lai. Tất nhiên, đó là suy nghĩ của một thời đói kém, bởi đói kém, thường con người ta chỉ dám mơ đến chuyện... đủ ăn.

Chăm chỉ lao động và được chính quyền địa phương giúp đỡ, gia đình Rơ Ma H'Nghe đã vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Đăng Lâm. 

Chăm chỉ lao động và được chính quyền địa phương giúp đỡ, gia đình Rơ Ma H'Nghe đã vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Đăng Lâm. 

Chia tay với làng Mook Đen của xã Ia Dom, chúng tôi vòng sang xã biên giới Ia Nan. Thực ra từ Ia Dom sang Ia Nan không xa là mấy. Cũng là xã biên giới liền kề nhau nên hai xã không khác gì nhau, về mọi mặt. Trên đường đi là bạt ngàn cao su của các doanh nghiệp, là mênh mông những vườn điều cổ thụ. Thi thoảng vẫn gặp những ruộng lúa thân cao gần đến thắt lưng người lớn mà bà con trồng để ăn, theo khẩu vị quen. Và cà phê. Mùa này, cà phê chuẩn bị cho thu hoạch, lác đác đã có quả chín nhưng bà con vẫn chưa vội hái, bởi để cho chín đều mới hái, chất lượng quả sẽ tốt hơn, giá bán sẽ cao hơn...

Biên giới cuối mùa mưa bạt ngàn xanh, màu xanh của sự no đủ, sự dám nghĩ, dám làm của cán bộ, chính quyền địa phương và của người J’rai nơi đây.

Siu H’Phích người làng Nú. Chị được cấp trên và bà con dân làng tin tưởng, bầu làm Bí thư Chi bộ kiêm trưởng thôn làng Nú từ ngày chính quyền địa phương hai cấp đi vào hoạt động. Tôi kể về những gì nhìn thấy trên đường đi vào xã Ia Nan, Siu H’Phích thành thật chia sẻ: “Cũng là mấy năm trở lại đây thôi anh ạ, còn trước đó, bà con vẫn khó khăn lắm. Thời đó, trông được đủ ăn là may lắm rồi”.

“Vậy thời đó khó khăn như thế nào?”, tôi hỏi, chị trả lời: “Là không đủ ăn, là lúc nào cũng lo cái đói giáp hạt cận kề, là...”.

Và chị kể...

Người J’rai ở làng Nú, ở cái xã biên giới Ia Nan này, từ ngàn đời nay chỉ quen với khoảnh rẫy trồng lúa cạn, quen với phương thức canh tác lạc hậu là chọc trỉa, sáu tháng sau đến kỳ thu hoạch thì dùng liềm cắt ngọn lúa, lấy chân chà cho hạt lúa bung ra rồi đem vào kho cất (là nói cái thời đã có liềm. Còn trước đó chỉ dùng đôi bàn tay trần chai sạn tuốt từng ngọn lúa chín trên rẫy, có khi tuốt đến... tóe máu tay). Ngoài lúa rẫy thì phát, đốt rừng, lấy đất trồng sắn, trồng khoai phòng khi hết lúa. Cây điều thì cũng chỉ mới mấy chục năm trở lại đây thôi. Mà điều là “cây lười” bởi chỉ cắm cây giống xuống, rồi... đợi đến ngày thu hoạch chứ không phải chăm sóc gì nhiều. Phàm đã là “lười” thì khó nói đến chuyện đủ ăn. Vậy là nghèo, là đói.

Chủ tịch UBND xã Ia Nan là anh Nguyễn Trọng Quỳnh. Tuy vừa được điều động giữ cương vị Chủ tịch UBND xã biên giới này từ ngày 1/7/2025, nhưng trước đó anh là cán bộ Văn phòng Huyện ủy huyện Chư Prông (cũ) nên thường xuyên đi công tác cơ sở, do đó tình hình của xã, anh nắm khá rõ.

Xã Ia Nan có 9 thôn làng, trong đó có 3 làng người J’rai. Dân số gồm 2.075 hộ với 8.633 nhân khẩu, người dân tộc thiểu số chiếm 28,7%. Tổng diện tích tự nhiên của xã khá rộng, khoảng trên 9.000ha. “Đất đai rộng và tương đối màu mỡ. Tuy nhiên con người không biết ‘đánh thức’ nó thì nghèo vẫn chỉ là nghèo thôi”, anh Quỳnh nói.

Vườn điều hai bên đường vào xã biên giới Ia Nan. Ảnh: Đăng Lâm. 

Vườn điều hai bên đường vào xã biên giới Ia Nan. Ảnh: Đăng Lâm. 

Nói về nguyên nhân mà bà con một thời mãi chịu sống trong cảnh nghèo, anh Quỳnh tóm lược ngắn gọn: Là do thiếu đất sản xuất (tiếng là đất rộng, nhưng chủ yếu là diện tích đất rừng), là do bà con chưa có kỹ năng, chưa có kiến thức để phát triển sản xuất. “Một nguyên nhân nữa, cũng xin chia sẻ thật, đó là tâm lý của không ít bà con còn ỷ lại, lười lao động, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước”, Chủ tịch xã Ia Nan nói.

Vậy là nghèo...

Lá đơn xin thoát nghèo đầu tiên

“Để cho cái xã vùng biên vốn khó khăn ngàn đời này được thay da đổi thịt, có được như ngày hôm nay là cả một quá trình cam go và bền bỉ. Trong đó phải kể đến các chương trình mục tiêu quốc gia của Nhà nước đầu tư cho xã biên giới, ưu đãi cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cũng không thể phủ nhận vai trò của chính quyền địa phương. Và trên hết là bà con đã biết nhận thức, biết vươn lên để thoát cái đói, để có cuộc sống ổn định như ngày hôm nay”, Chủ tịch xã Ia Nan, anh Nguyễn Trọng Quỳnh chia sẻ.

Chương trình cấp bò sinh sản giúp người dân làng Nú vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Đăng Lâm. 

Chương trình cấp bò sinh sản giúp người dân làng Nú vươn lên thoát nghèo. Ảnh: Đăng Lâm. 

Các chương trình ưu đãi mà anh Quỳnh nói ở trên, đã được chính quyền địa phương vận dụng khá linh hoạt. Việc trước tiên là xã phân công các hội đoàn thể bám làng, bám dân để tuyên truyền, vận động bà con mạnh dạn chuyển đổi phương thức sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp, mang lại giá trị kinh tế cao hơn. Từ đây, những rẫy lúa cạn dần được thu hẹp, thay vào đó là lúa nước cho năng suất cao, là cà phê, là cao su tiểu điền...  

“Cái thuận lợi của xã là trên địa bàn có một số doanh nghiệp hoạt động, có đồn biên phòng đóng quân. Những đơn vị này luôn kề vai sát cánh với chính quyền địa phương trong công cuộc giúp dân thoát nghèo”, anh Quỳnh cho biết.

Từ đây, thủy lợi dẫn nước về đồng, những cánh đồng lúa nước được mở rộng hơn, những giống cây trồng mới cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn đã được đưa về cho bà con. Đặc biệt là các lớp tập huấn về khuyến nông đã được tổ chức ở từng thôn làng. Người J’rai ở làng Nú và các thôn làng khác trong xã nô nức tham dự, học hỏi kinh nghiệm. Từ đó, những kiến thức mới, những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp đã được bà con vận dụng trên chính những thửa ruộng, vườn cây của gia đình mình...

Vùng biên dần khởi sắc.

Khởi sắc ở vùng biên giới Ia Nan không chỉ là giống mới, là kỹ thuật canh tác mà hôm nay, Ia Nan đã có đầy đủ điện - đường - trường - trạm. Người J’rai nơi đây đã được thụ hưởng tất cả những nhu cầu thiết yếu nhất mà Nhà nước mang lại cho họ.

Lại nói về làng Nú, Siu H’Phích cho biết, làng Nú hiện tại có 274 hộ với 1.298 nhân khẩu, đều là người J’rai. “Nếu cuối năm 2024, làng có 17 hộ nghèo, 23 hộ cận nghèo thì đến nay, chỉ còn lại 7 hộ nghèo”, Siu H’Phích tự hào nói.

Cũng theo chị thì thu nhập chính của bà con trong làng là lúa nước đủ ăn. Điều thì nhà nào cũng có, rồi trồng cà phê, làm công nhân cạo mủ cao su. Không ít người dân trong làng đã vĩnh viễn thoát nghèo, vươn lên khá giả với nhà cửa khang trang, với những tiện nghi sinh hoạt đắt tiền.

Rơ Mah H’Nghe là một ví dụ điển hình. H’Nghe cùng chồng và 3 đứa con nhỏ từng có cuộc sống hết sức khó khăn. Còn hiện tại, vợ chồng đã biết làm lúa nước và các loại cây trồng khác, chăn nuôi gia súc theo hướng bài bản đã học được từ các lớp tập huấn khuyến nông. Hai vợ chồng còn tham gia hợp đồng làm công nhân cạo mủ cao su, thu nhập mỗi tháng từ việc cạo mủ hơn mười triệu đồng.

Già làng Nú, ông Rơ Lan Din đã sống qua bảy mươi mùa rẫy, đã quá hiểu cái cảnh cơ cực một thời của dân làng, để rồi biết ơn Nhà nước đã mang lại cuộc sống ấm no, đủ đầy cho bà con như ngày hôm nay. “Tôi tự nguyện làm đơn xin thoát nghèo, bởi mình có còn nghèo nữa đâu”, già Rơ Lan Din cười tươi, nụ cười của một người đàn ông J’rai đã đi qua không biết bao nhiêu thăng trầm để hôm nay, được là người đầu tiên của làng Nú làm đơn xin thoát nghèo.

Làng Nú nghèo khó hôm nào, nay đã khoác lên mình màu xanh của cao su, cà phê, của lúa nước. Cái nghèo, cái đói ngự trị ngàn năm ở ngôi làng miền biên viễn này, giờ chỉ còn là câu chuyện cổ tích mà mỗi khi có dịp, già làng lại đem ra kể cho đám thanh niên trong làng nghe, để làm bài học mà biết vươn lên, biết làm giàu cho chính mình.

Xem thêm
Giảm ùn tắc giao thông ở Hà Nội: Cách nào?

Chuyên gia giao thông cho rằng, việc ưu tiên 53 tỷ USD xây dựng đường sắt đô thị là ‘chìa khóa’ giúp thay đổi cục diện giao thông Hà Nội.

Chuyện giảm nghèo ở vùng biên giới: [Bài 2] Làng Nú có đơn xin thoát nghèo
Phóng sự 8 giây trước