Thế giới ngưỡng mộ thành tích giảm nghèo của Việt Nam
PGS.TS Đào Thế Anh, Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển nông thôn Việt Nam (PHANO), nguyên Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đánh giá, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là một chính sách công hiếm có, không phải quốc gia nào cũng triển khai. Thế giới thực sự ngưỡng mộ thành tích giảm nghèo của Việt Nam, bởi ở nhiều nước dù vẫn còn người nghèo nhưng lại không có những chương trình, chính sách căn cơ như vậy, mà chỉ dừng ở việc hỗ trợ tiền và thực phẩm
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trong thời gian vừa qua đã ghi nhận nhiều thành tựu rõ rệt. Theo báo cáo mới nhất, tỷ lệ hộ nghèo cả nước theo chuẩn nghèo đa chiều đã giảm từ 5,02% đầu năm 2021 xuống còn 1,93% cuối năm 2024; dự kiến đến cuối 2025 sẽ tiếp tục giảm thêm 0,8 - 1%. Trong vòng hơn 20 năm qua, trung bình mỗi năm Việt nam giảm nghèo khoảng 1%. Đây là kết quả rất đáng khích lệ.

PGS.TS Đào Thế Anh, Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển nông thôn Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đánh giá, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là một chính sách công hiếm có, không phải quốc gia nào cũng triển khai. Ảnh: Hồng Thắm.
Hơn nữa, cách tiếp cận giảm nghèo của Việt Nam cũng ngày càng được hoàn thiện. Nếu giai đoạn đầu chỉ tập trung vào nâng thu nhập, thì đến giai đoạn 2021 - 2025 đã chuyển sang áp dụng tiếp cận đa chiều, toàn diện và tổng hợp hơn. Không chỉ dừng lại ở việc bảo đảm đủ ăn, chương trình còn chú trọng đến dinh dưỡng và chất lượng thực phẩm nhằm cải thiện sức khỏe người dân.
Đây là một bước tiến lớn, phù hợp với Chương trình hành động đến năm 2030 của Liên Hợp quốc về phát triển bền vững, trong đó an ninh lương thực được hiểu không chỉ là chấm dứt nạn đói về số lượng lương thực mà còn cả về dinh dưỡng và an toàn. Trong tiến trình này, con người được đặt ở vị trí trung tâm, đặc biệt là sức khỏe của thanh thiếu niên - thế hệ tương lai của đất nước.
Đến nay, tỷ lệ nghèo cả nước đã giảm xuống mức rất thấp, chỉ còn tập trung ở một số địa phương đặc biệt khó khăn hoặc ở những nhóm yếu thế không còn khả năng lao động. Với những đối tượng này, cần có chính sách đặc thù hơn, bởi họ khó có thể thoát nghèo nhờ cách tiếp cận “trao cần câu” như thời gian trước. Mặc dù phương pháp “trao cần câu” trong nhiều năm qua đã đem lại kết quả tích cực khi giúp hộ nghèo có phương thức sản xuất, tự lao động vươn lên, thay vì chỉ dựa vào trợ cấp.
Tích hợp nông thôn mới và giảm nghèo, lợi ích toàn diện
Trước tác động ngày càng rõ rệt của biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh, sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương đang phải đối diện với nhiều rủi ro. Vì vậy, cần có một cách tiếp cận tổng hợp và hệ thống hơn.
Theo PGS.TS Đào Thế Anh, việc tích hợp Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững thành một chương trình hỗ trợ nông thôn mang tính tổng hợp sẽ mang lại nhiều lợi ích. Nếu tách rời, mỗi chương trình đều gặp khó khăn trong đào tạo, tập huấn và triển khai, khiến nông dân khó theo kịp. Ngược lại, tích hợp sẽ giúp đồng bộ mục tiêu, đơn giản hóa công tác thực hiện và nâng cao hiệu quả.

Việc tích hợp Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững thành một chương trình hỗ trợ nông thôn mang tính tổng hợp sẽ mang lại nhiều lợi ích. Ảnh: Hồng Thắm.
Thuận lợi đầu tiên của tích hợp là công tác lập kế hoạch và tổ chức thực hiện. Trong bối cảnh phân quyền mạnh về địa phương, vai trò của cấp tỉnh, đặc biệt cấp xã trở nên quan trọng. Nếu duy trì nhiều chương trình riêng rẽ, dễ xảy ra tình trạng chồng chéo, cạnh tranh đối tượng thụ hưởng, thậm chí bỏ sót những nhóm cần hỗ trợ. Tích hợp ngay từ khâu lập kế hoạch và phân bổ nguồn lực sẽ giúp xác định đúng đối tượng, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý hành chính.
Quan trọng hơn, cần tiếp cận phát triển bền vững không chỉ hướng đến người nghèo, mà cho toàn bộ cộng đồng địa phương. Đây cũng là chủ trương mà Đảng và Chính phủ đã và đang nhấn mạnh. Khi chương trình giảm nghèo được tích hợp với nông thôn mới và các chương trình khác, nó sẽ trở thành một chương trình phát triển tổng hợp, bền vững. Trong đó, cộng đồng nghèo và cả các hộ khá, giàu có thể cùng nhau làm ăn, chia sẻ giải pháp cùng đối mặt với các thách thức mới.
Tiếp cận nông nghiệp sinh thái và hệ thống lương thực thực phẩm
Qua một số nghiên cứu và khảo sát, PGS.TS Đào Thế Anh nhận thấy có một thực tế đáng lưu ý, tại không ít địa phương miền núi, dù người dân có thu nhập cao hơn nhờ sản xuất hàng hóa, nhưng chất lượng bữa ăn và dinh dưỡng lại chưa được cải thiện.
Nguyên nhân là do xu hướng chuyên canh, phụ thuộc vào thực phẩm mua từ thị trường. Trong khi đó, ở nông thôn không phải có tiền là mua được thực phẩm chất lượng. Phần lớn hàng hóa còn kém chất lượng, chưa được kiểm soát chặt chẽ về an toàn, thậm chí nhiều sản phẩm chế biến nghèo dinh dưỡng, không rõ nguồn gốc. Đây là một điểm yếu, quá thiên về sản xuất mà chưa chú trọng đến tiêu dùng địa phương.

Chiến lược chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái cũng cần được coi là giải pháp phù hợp và cần thiết cho vùng miền núi, vùng khó khăn. Ảnh: Hồng Thắm.
Từ thực tiễn đó, PGS.TS Đào Thế Anh đề xuất, cách tiếp cận đối với thị trường miền núi, cần cân bằng giữa sản xuất hàng hóa để bán ra thị trường và sản xuất một phần phục vụ tiêu dùng trong hộ gia đình. Những vườn rau hữu cơ, vật nuôi bản địa vừa giúp cải thiện bữa ăn, vừa đảm bảo dinh dưỡng. Đây chính là hướng tiếp cận “Nông nghiệp đảm bảo dinh dưỡng”, đã được Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ban hành trong các sổ tay phổ biến cho các địa phương và hiện đã tích hợp vào Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2026 - 2030.
PGS.TS Đào Thế Anh nhấn mạnh, để đạt hiệu quả, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chuyên gia nông nghiệp, dinh dưỡng, sức khỏe, cùng đào tạo, hướng dẫn cho nông dân. Quan trọng hơn, không chỉ chú trọng thu nhập và thị trường, mà song song phải quan tâm đến tiêu dùng, sức khỏe cộng đồng - đặc biệt là thanh thiếu niên, trẻ em, thế hệ tương lai của đất nước.
Bên cạnh đó, chiến lược chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái cũng cần được coi là giải pháp phù hợp và cần thiết cho vùng miền núi, vùng khó khăn. Việc khai thác đa dạng sinh học, sử dụng giống cây trồng, vật nuôi bản địa giúp vừa phục vụ nhu cầu tại chỗ, vừa tạo sản phẩm cho thị trường.
“Có những vùng trước đây khi giá ngô tăng, nông dân đổ xô trồng ngô, diện tích rau màu phục vụ tiêu dùng biến mất, đến khi giá ngô giảm thì không còn nguồn thu, tính bền vững rất thấp. Do đó, cần phát triển đa dạng sinh học và tránh chạy theo độc canh một sản phẩm”, PGS.TS Đào Thế Anh nói thêm.
PGS.TS Đào Thế Anh cho rằng, việc khai thác đa dạng sinh học còn mở ra cơ hội gắn kết với du lịch cộng đồng. Ngay tại các vùng nghèo như: Lai Châu, bản làng người Mông vẫn có thể phát triển du lịch dựa trên bảo tồn văn hóa truyền thống. Đây là hướng tiếp cận bền vững, giúp chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái, đóng góp vào giảm nghèo đa chiều, bởi giảm nghèo đa chiều không chỉ tính đến thu nhập, mà còn cả dinh dưỡng, sức khỏe, điều kiện sống và môi trường.
Với lợi thế đáp ứng đa mục tiêu, nông nghiệp sinh thái có thể đồng thời phục vụ chương trình giảm nghèo, chương trình nông thôn mới và thích ứng biến đổi khí hậu. Điều này giúp tinh giản đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, tránh tình trạng nông dân phải tham gia quá nhiều lớp tập huấn rời rạc.
Trước đây, chương trình nông thôn mới và khuyến nông đã phát huy tốt vai trò thúc đẩy sự tham gia của người dân ngay từ khâu lập kế hoạch, đồng thời xây dựng được đội ngũ nông dân tiên tiến có khả năng dẫn dắt, tự làm chủ và lãnh đạo tại địa phương, tập hợp cả hộ nghèo lẫn hộ khá cùng hợp tác phát triển. Việc tích hợp hai chương trình nông thôn mới và giảm nghèo sẽ tiếp tục phát huy mô hình này, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo.
PGS.TS Đào Thế Anh cũng lưu ý, phát triển thị trường không thể chỉ tách riêng cho người nghèo, bởi điều này không khả thi. Các hoạt động cần triển khai chung cho cả cộng đồng, trong đó vẫn có thể ưu tiên nhóm yếu thế. Ví dụ, cải thiện môi trường sinh thái trong bản không thể phân biệt hộ nghèo hay hộ khá, mà phải là nỗ lực chung. Nếu tách riêng, người nghèo sẽ dễ bị mặc cảm, không hòa nhập xã hội. Ngược lại, khi cùng nhau hợp tác và làm giàu, cộng đồng sẽ bền vững hơn.
PGS.TS Đào Thế Anh bày tỏ kỳ vọng, giai đoạn 2026 - 2030 sẽ là bước chuyển quan trọng trong công cuộc giảm nghèo của Việt Nam. Thay vì chỉ hỗ trợ riêng lẻ, cần tiếp cận theo hướng “cùng nhau làm giàu bền vững”, dựa trên nền tảng nông nghiệp sinh thái và chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm bền vững. Đây chính là con đường để giảm nghèo thực chất, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm sự phát triển bền vững cho các thế hệ mai sau.