Hơn 2.000 trang trại
Thời gian qua, Sở Nông nghiệp và Môi trường Ninh Bình xác định việc đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn có vị trí quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Nhiều sản phẩm chăn nuôi của Ninh Bình đạt chứng nhận sản phẩm OCOP các cấp. Ảnh: Tùng Đinh.
Ngành nông nghiệp tập trung các giải pháp nhằm hỗ trợ cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, HTX tăng cường liên kết, mở rộng quy mô sản xuất nâng cao hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Đồng thời, củng cố và phát triển các loại hình hợp tác xã; khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp nông nghiệp, hỗ trợ xây dựng các chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân.
Đặc biệt, sản xuất chăn nuôi chăn nuôi theo chuỗi giúp người chăn nuôi có điều kiện thuận lợi hơn trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, qua đó nâng cao năng suất, chất lượng, đảm bảo số lượng và đầu ra của sản phẩm.
“Đây là hướng đi bền vững, là bước đi phù hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cho sản phẩm chăn nuôi trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn diện”, ông Nguyễn Hải Đăng, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn (Sở Nông nghiệp và Môi trường) tỉnh Ninh Bình khẳng định.
Theo thống kê, Ninh Bình hiện có 2.024 trang trại chăn nuôi, trong đó 33 trang trại chăn nuôi quy mô lớn, 548 trang trại chăn nuôi quy mô vừa, 1.443 trang trại chăn nuôi quy mô nhỏ; 34 cơ sở được chứng nhận an toàn dịch bệnh.
Đánh giá của Sở Nông nghiệp và Môi trường Ninh Bình cho thấy, phương thức chăn nuôi có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỷ lệ chăn nuôi nông hộ, tăng mạnh chăn nuôi trang trại theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp.
Tỉnh đã xây dựng, phát triển mạnh mẽ các chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng sản phẩm nông nghiệp an toàn, gắn với truy xuất nguồn gốc tổng 123 chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ, cung ứng thực phẩm nông sản an toàn. Trong đó 19 chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, tập trung vào thịt lợn và các sản phẩm từ thịt lợn (giò, chả, xúc xích) và trứng gà, vịt.
“Có nhiều chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi được đầu tư về cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ 4.0 gắn với việc xây dựng các sản phẩm được chứng nhận OCOP 3 sao, 4 sao”, ông Nguyễn Hải Đăng cho biết thêm.
Ông Nguyễn Hải Đăng, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn (Sở Nông nghiệp và Môi trường Ninh Bình): Ninh Bình khuyến khích sản xuất chăn nuôi chăn nuôi theo chuỗi, ứng dụng khoa học công nghệ. Ảnh: Tùng Đinh.
Hiện nay, các chuỗi đa số do các HTX, chủ trang trại làm chủ chuỗi có vai trò lựa chọn cung cấp cung cấp vật tư đầu vào, giám sát kỹ thuật sản xuất, thu mua chế biến, xây dựng thương hiệu, quảng bá, giới thiệu tiêu thụ sản phẩm.
“Cơ quan nhà nước giữ vai trò hướng dẫn, hỗ trợ tư vấn xây dựng chuỗi, đào tạo, tập huấn kiến thức sản xuất kinh doanh an toàn, kiến thức thị trường, quy trình kỹ thuật sản xuất, tổ chức sản xuất, giám sát đảm bảo chất lượng ATTP, hỗ trợ cơ sở vật chất kỹ thuật cho các đối tác tham gia liên kết chuỗi”, bà Phạm Thị Thoa, Trưởng Phòng Chế biến và Phát triển thị trường, Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Bình cho biết.
Theo bà Thoa, cơ chế liên kết được xây dựng theo tinh thần tự nguyện và cùng chia sẻ lợi ích giá trị gia tăng, việc phát triển liên kết theo chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp dựa trên liên kết doanh nghiệp, công ty với hợp tác xã, các tổ chức nông dân, nông dân.
Cần thêm sự hỗ trợ
Đánh giá là chuỗi liên kết trong chăn nuôi ở Ninh Bình hiện nay, Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh cho rằng vẫn có một số hạn chế như 70% là sản xuất ở quy mô nông hộ, nhỏ lẻ và gặp nhiều khó khăn liên quan đến dịch bệnh trong những năm gần đây.
Bên cạnh đó, tỉnh vẫn chưa có một chính sách đồng bộ, chính sách riêng về khuyến khích phát triển chuỗi giá trị trong sản xuất, phân phối sản phẩm nông nghiệp nói chung và chăn nuôi nói riêng. Điều này dẫn đến chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư xây dựng chuỗi cung ứng sản phẩm.
"Mặc dù có nhiều chính sách của Chính phủ, các Bộ, Ngành và UBND tỉnh về xây dựng phát triển chuỗi liên kết, song nguồn lực dành cho xây dựng phát triển chuỗi còn rất hạn chế chưa khuyến khích xây dựng và phát triển mạnh các chuỗi liên kết", bà Phạm Thi Thoa chia sẻ.
Bà Phạm Thị Thoa, Trưởng Phòng Chế biến và Phát triển thị trường, Chi cục Phát triển nông thôn Ninh Bình khảo sát sản phẩm chăn nuôi của doanh nghiệp trong tỉnh. Ảnh: Tùng Đinh.
Nguyên nhân của vấn đề này được cho là do nhận thức của người dân và một số chủ trang trại, HTX về liên kết sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, đảm bảo an toàn thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường còn hạn chế, tâm lý dè dặt đối với các doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp.
Cũng phải kể đến khả năng tổ chức gắn kết giữa sản xuất và kinh doanh thông qua thành lập nhóm, tổ hợp tác, hợp tác xã… còn gặp nhiều khó khăn. Năng lực tổ chức sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp chuyển đổi từ HTX hoạt động theo truyền thống sang HTX kiểu mới tham gia liên kết chuỗi với doanh nghiệp còn chậm.
Tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết, thiên tai diễn biến phức tạp, bất thường, khó lường cùng với biến động của thị trường cũng làm cho sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất theo chuỗi liên kết nói riêng gặp không ít khó khăn.
Sản phẩm của chuỗi chăn nuôi, chế biến, tiêu thụ thịt lợn của doanh nghiệp ở Ninh Bình. Ảnh: Tùng Đinh.
Trước bối cảnh đó, ông Nguyễn Hải Đăng cho rằng cần có chính sách đồng bộ, cụ thể về khuyến khích phát triển chuỗi giá trị trong sản xuất, phân phối sản phẩm nông nghiệp nói chung và chăn nuôi nói riêng để khuyến khích, thu hút doanh nghiệp tham gia, đầu tư vào chuỗi sản xuất.
"Các cơ quan quản lý nhà nước sẽ là đầu mối gắn kết doanh nghiệp và người chăn nuôi, giúp hình thành các chuỗi liên kết trong sản xuất, bao tiêu sản phẩm", Chi Cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Ninh Bình chia sẻ.
Ông cũng kiến nghị các bộ ngành Trung ương tiếp tục nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong khâu chăn nuôi, các công nghệ bảo quản và chế biến thịt lợn theo hướng hữu cơ và an toàn sinh học, quản lý chuỗi giá trị thịt lợn hữu cơ để đảm bảo lợi ích của cả người nuôi, người tiêu dùng và đánh giá hiệu quả của các mô hình thành công trong chăn nuôi theo hướng hữu cơ và an toàn sinh học.
Cụ thể là hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển chuỗi giá trị thịt lợn hữu cơ và an toàn sinh học nhằm góp phần tái cơ cấu, nâng cao giá trị ngành chăn nuôi. Cải thiện thủ tục hành chính để các doanh nghiệp dễ tiếp cận với chính sách.
Ngoài ra, hỗ trợ các chương trình, dự án chăn nuôi mô hình nông nghiệp thông minh, dự án về xử lý môi trường chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, dự án về bảo tồn và lưu giữ các loại giống bản địa.





























