Sơn La là địa phương sở hữu nguồn gen cây ăn quả phong phú, bao gồm cả những giống bản địa quý hiếm hoặc được trồng từ lâu như: chuối tây Yên Châu, xoài tròn Yên Châu, nhãn Sông Mã, mận tam hoa Mộc Châu, mận Punhi - được ví như quả cherry.

TS Nguyễn Văn Dũng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả giải mã thành công của Sơn La trong phát triển cây ăn quả trên đất dốc. Ảnh: Đức Bình.
Ông Nguyễn Văn Dũng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả, cho biết: “Nhờ khí hậu đa dạng, Sơn La có thể tiếp nhận và thích nghi với nhiều giống cây ăn quả mới từ Nhật Bản, Đài Loan, Úc, Thái Lan, cũng như các giống tuyển chọn từ nhiều địa phương khác”.
Nhiều giống cây đã thích nghi tốt, cho năng suất và chất lượng cao như: xoài Đài Loan, xoài Úc, nhãn T6, nhãn Ánh Vàng 205, cam không hạt, thanh long ruột đỏ TL4, TL5, thanh long vỏ vàng TLV15, bơ Booth, chanh leo tím, chanh leo Hoàng Kim 151, na Hoàng Hậu...
Ghép cải tạo thay thế và thâm canh rải vụ là hai kỹ thuật đã đem đến bước ngoặt cho người nông dân Sơn La.
Từ những năm 2010, kỹ thuật ghép đã được đưa về thử nghiệm tại địa bàn tỉnh tại một số vùng xoài, nhãn có chất lượng quả kém và hiệu quả kinh tế thấp. Đến năm 2015, sau khi có chủ trương, các hộ dân tham gia được hỗ trợ 200.000 đồng cho trung bình 16 mắt ghép, nhờ đó mà hiệu quả tăng lên rõ rệt, các giống mới đều được người dân tìm tòi và tự ghép cho quãng thời gian sau này.
Đối với kỹ thuật thâm canh rải vụ, sử dụng biện pháp kỹ thuật chính: bao gồm cắt tỉa cành sau thu hoạch, cành lộc mới xuất hiện; cắt tỉa chùm hoa, chùm quả sau đậu quả; bón phân hữu cơ, tưới nước cho cây, đặc biệt vào các thời điểm nở hoa, đậu quả và phát triển của quả; sử dụng thuốc kích hoa thúc đẩy ra hoa sớm, thay đổi loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học và có trong danh mục của VietGAP. Xoài, na và nhãn là ba loại quả được nông dân áp dụng thành công nhất.
Định hướng phát triển bền vững

Ngày hội bao trái xoài ở Yên Châu. Ảnh: Đức Bình.
Ông Dũng nhấn mạnh, thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục xây dựng vùng trồng cây chủ lực theo hướng chuỗi sản xuất để tăng giá trị kinh tế, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số trong sản xuất. Điều này bao gồm ứng dụng công nghệ số trong thâm canh, quản lý mã số vùng trồng, giám sát sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm và thương mại điện tử.
Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả khai thác mã số vùng trồng để đáp ứng yêu cầu của các thị trường tiêu thụ. Tăng cường năng lực quản lý cho các hợp tác xã trong sản xuất, chế biến cây ăn quả nhằm tạo liên kết sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP.
Việc phát triển và khai thác hiệu quả các chỉ dẫn địa lý, thương hiệu, nhãn hiệu chứng nhận cho các sản phẩm quả đặc sản và chủ lực của tỉnh cũng là nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời, bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm tại các quốc gia tiêu thụ chính nhằm mở rộng thị trường.
Tăng cường năng lực sản xuất giống và áp dụng tiến bộ kỹ thuật
Tỉnh cần tập trung phát triển các cơ sở sản xuất giống cây ăn quả chất lượng cao, sạch bệnh, đáp ứng nhu cầu mở rộng và thay thế diện tích trồng đã già cỗi, suy giảm năng suất.
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong canh tác cây ăn quả là yếu tố then chốt, bao gồm: sử dụng giống mới có năng suất, chất lượng cao, thời gian thu hoạch đa dạng; áp dụng kỹ thuật cắt tỉa, tưới nước và bón phân qua hệ thống tưới hiện đại để giảm chi phí và tăng năng suất.
Ông Dũng chú ý thêm cần nghiên cứu quy trình xử lý ra hoa rải vụ thu hoạch đối với các loại cây chủ lực như: xoài, nhãn, na và thanh long, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm quanh năm, tăng giá trị kinh tế giúp bà con nông dân.
Đảm bảo sản xuất, nông dân hay HTX cần xây dựng mối liên kết bền vững giữa doanh nghiệp chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu để đảm bảo đầu ra ổn định và kiểm soát chất lượng. Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh tổ chức những hội chợ quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, kết hợp với thương mại điện tử nhằm tiếp cận nhiều hơn với khách hàng.