Bộc lộ những mảng "nâu" bất cập
Tỉnh Quảng Ninh là bể than của vùng Đông Bắc với trữ lượng thăm dò xấp xỉ 4 tỷ tấn, trải dài từ khu vực Cẩm Phả, Hạ Long đến Uông Bí, Đông Triều (cũ). Giai đoạn từ năm 2011 trở về trước, cơ cấu thu nội địa của tỉnh Quảng Ninh chủ yếu dựa vào than (khoảng 67%). Tuy nhiên, trong xu hướng phát triển xanh, giảm phụ thuộc vào than, tỉnh Quảng Ninh cùng với Tập đoàn TKV đã từng bước lập kế hoạch đưa ra lộ trình hợp lý để đóng cửa những mỏ than lộ thiên và chuyển sang khai thác hầm lò.
Bãi thải mỏ đã chất cao như núi, nguy cơ gây sạt lở và phát tán bụi ô nhiễm môi trường. Ảnh: Vũ Cường.
Song hành với việc hạn chế dần khai thác than lộ thiên, TKV tiếp tục đầu tư nhiều thiết bị cải thiện chất lượng không khí trong khai trường sản xuất, như: các hệ thống phun sương dập bụi dạng quạt cao áp, xe tưới đường chuyên dụng dung tích 50m3 nước, trồng cây hoàn nguyên môi trường, xử lý nước thải công nghiệp và chất thải nguy hại.
Đặc biệt, TKV và tỉnh Quảng Ninh đang đẩy mạnh áp dụng chiến lược kinh tế tuần hoàn, cho thu hồi, tái sử dụng đất đá thải mỏ. Lượng đất đá này một phần để lấp lại những moong khai thác, cải tạo các tầng thải và phục hồi môi trường; phần còn lại có thể khai thác, chế biến, sử dụng làm vật liệu san lấp mặt bằng, vật liệu xây dựng, giúp sử dụng tiết kiệm tài nguyên đất san lấp và tạo nguyên vật liệu mới cho quá trình sản xuất khác.
Sau khi hoàn thành toàn bộ phần xây dựng cơ bản và đóng cửa khai thác lộ thiên, từ năm 2021, Công ty CP Than Núi Béo bước vào sản xuất hầm lò hoàn toàn. Cũng thời điểm này, mỏ đón tấn than hầm lò thứ 1 triệu của năm 2021, tạo dấu mốc khẳng định hướng đi đúng đắn của mô hình khai thác mới. Những năm gần đây, sản lượng hầm lò của Công ty tăng trưởng ổn định.
Chuẩn bị cho lộ trình dừng nhiệt điện than
Theo ông Nguyễn Mạnh Chuyền, Phó Trưởng ban Môi trường TKV, mục tiêu thực hiện cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” của Việt Nam vào năm 2050 đã tác động mạnh mẽ tới các hoạt động của TKV, đặc biệt là với nhu cầu than của TKV cung cấp cho sản xuất điện trong nước sẽ giảm mạnh sau 2030 và giảm đột ngột giai đoạn từ năm 2045 đến năm 2050 (từ 17,9 triệu tấn năm 2045 về 0 triệu tấn năm 2050 theo quy hoạch tổng thể năng lượng).
Thành phẩm cát, đá nghiền sàng từ nguồn đất đá thải mỏ do Tập đoàn Indevco nghiên cứu. Ảnh: Vũ Cường.
Dự kiến sau năm 2045, sản lượng than khai thác hằng năm vẫn quy hoạch khai thác xấp xỉ 40 triệu tấn, trong khi nhu cầu sử dụng than cho sản xuất điện bằng 0, các ngành công nghiệp khác cũng phải chuyển đổi sang sử dụng năng lượng khác…
Bên cạnh đó, TKV cũng phải chuyển đổi năng lượng các nhà máy nhiệt điện than cũ đã đầu tư. HIện nay, Tập đoàn đang xây dựng lộ trình cụ thể và cân nhắc việc triển khai nhiều giải pháp đồng bộ về công nghệ chôn lấp, thu giữ và tối ưu hóa các bon; phát triển thị trường mua bán trao đổi tín chỉ các-bon, trồng cây phát triển rừng trung hòa các-bon... nhằm duy trì nhiệt điện than hợp lý đến hết đời dự án (trước năm 2050). Lộ trình này cũng giúp hạn chế những tác động từ việc nhu cầu than giảm dần, chủ động khai thác, cung ứng và dự trữ than nội địa trong nước để không gây lãng phí tài nguyên và các nguồn lực của quốc gia.
Đây là thách thức rất lớn với TKV bởi hiện nay, lĩnh vực than chiếm tỷ trọng 60-70% doanh thu hàng năm của TKV. Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch năng lượng, TKV đề nghị cần sớm ban hành các quy định hướng dẫn, định hướng và chính sách cụ thể về chuyển đổi từ năng lượng hóa thạch sang các nguồn thay thế khác để tạo hành lang pháp lý cho sự chuyển đổi của các nhà máy nhiệt điện đốt than.










![Chuyển đổi giao thông xanh: [Bài 2] Sứ mệnh kiến tạo xanh của VinFast](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/content/2025/11/27/bai-2-su-menh-kien-tao-xanh-cua-vinfast-172802_794-102550.jpg)
















