Thông tin được đưa ra tại Hội thảo “Thị trường Các-bon - Từ chính sách đến thực tiễn”, diễn ra ngày 26/11. Sự kiện nằm trong chuỗi hoạt động của Tọa đàm quốc tế “Định hướng thị trường các-bon toàn cầu và Việt Nam: những nhận định sau COP30 và hướng đi tiếp theo”, do Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội), Đại học Flinders phối hợp với CARE tại Việt Nam, Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) và Đại học British Columbia tổ chức.
Theo Báo cáo thực tế và xu hướng định giá các-bon của Ngân hàng thế giới năm 2025, chỉ riêng năm 2024, các dự án lâm nghiệp và sử dụng đất dẫn đầu về số lượng dự án đăng ký mới. Tín chỉ hấp thụ các-bon dựa vào tự nhiên có mức giá cũng như khả năng phục hồi giá cao hơn đáng kể so với các loại tín chỉ các-bon khác, bao gồm cả tín chỉ giảm phát thải. Nhóm tín chỉ này được kỳ vọng có thể giữ vai trò cốt lõi trong tuân thủ Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của nhiều quốc gia từ năm 2026.
TS. Lưu Tiến Đạt, Phó trưởng phòng Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, tín chỉ các-bon rừng phải đảm bảo tính toàn vẹn môi trường. Ảnh: Quyết Thắng.
Theo TS. Lưu Tiến Đạt, Phó trưởng phòng Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), điều này cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng, hay một tiêu chuẩn mới, đó là: Tín chỉ các-bon rừng chỉ được chấp nhận khi đảm bảo tính toàn vẹn môi trường, tính bổ sung, tính bền vững và tính minh bạch tuyệt đối. Đây không chỉ đơn thuần là yêu cầu kỹ thuật, mà đang trở thành tiêu chuẩn cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Và do đó, rừng đang được định vị là tài sản dịch vụ hệ sinh thái có yêu cầu tính toàn vẹn khắt khe hơn bao giờ hết.
Tại Việt Nam, dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng đã được đề cập trong Luật Lâm nghiệp 2017 và là một trong 5 dịch vụ môi trường rừng.
Cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng được triển khai trong hơn một thập kỷ vừa qua, với tổng thu tới cuối năm 2024 là hơn 30.000 tỷ đồng, trong đó nguồn thu từ dịch vụ các-bon rừng tại chương trình giảm phát thải thí điểm Bắc Trung Bộ chiếm 4%, mặc dù mới chỉ triển khai từ năm 2023. Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy tiềm năng của các-bon với vai trò là nguồn tài chính bổ sung vào ngân sách nhà nước cho ngành lâm nghiệp.
Để thể chế hóa việc huy động nguồn lực tài chính từ dịch vụ các-bon rừng, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đang khẩn trương tham mưu xây dựng khung pháp lý và điều kiện kỹ thuật để sẵn sàng tham gia thị trường các bon rừng trong nước và quốc tế. Khung pháp lý không chỉ hướng tới việc bán tín chỉ, mà cần xây dựng hệ thống thị trường các-bon rừng có chất lượng cao, gắn với phát triển lâm nghiệp bền vững, sinh kế cộng đồng và uy tín quốc tế của quốc gia.
Ông Đạt nhắc lại ý kiến của Lãnh đạo Cục Biến đổi khí hậu ở phiên khai mạc tọa đàm ngày 25/11, nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt của Việt Nam đối với việc xây dựng thị trường các-bon: Đây là công cụ để chuyển đổi mô hình tăng trưởng phát thải thấp. Việt Nam không chạy theo số lượng tín chỉ giá rẻ, mà tập trung vào chất lượng để đảm bảo lợi ích quốc gia và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế.
Thực tiễn triển khai tai các nước đi trước cho thấy, những rào cản điển hình mà Việt Nam cần vượt qua, đó là phân định rõ quyền sử dụng đất, lợi ích các bên từ nguồn thu tín chỉ, thu thập dữ liệu đo đạc – báo cáo – thẩm định (MRV)…
Theo ông Đạt, Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện truy xuất nguồn gốc các-bon của ngành gỗ và hàng không Việt Nam. Đây là cơ hội lớn để gắn tín chỉ các-bon rừng với chuỗi giá trị gỗ bền vững, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, và thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia thị trường.


























