Đây là nhận định của của Tiến sĩ Trương Bá Kiên, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng khí hậu, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu. Thực tế cho thấy, dù đã có dự báo sớm, nhiều địa phương vẫn vẫn thiệt hại nặng nề do mưa lớn và lũ lụt lịch sử, vượt xa kịch bản ứng phó thông thường.
Tiến sĩ Trương Bá Kiên, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng khí hậu, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu. Ảnh: NVCC.
Những "mảnh ghép" khớp nhau gây mưa liên tục
Thưa ông, các hình thế gây mưa ở Trung Bộ những tháng qua được nhận định là quen thuộc, hầu như năm nào cũng xuất hiện. Yếu tố cực đoan trong các đợt mưa lớn vừa qua thể hiện ra sao và nguyên nhân từ đâu?
Đối với các nhà dự báo, hình thế gây mưa vừa qua ở Trung Bộ không hề lạ: bão và áp thấp nhiệt đới vào Biển Đông; không khí lạnh tăng cường; gió mùa đông bắc và gió đông hoạt động mạnh; rãnh xích đạo và nhiễu động đới gió đông. Thực tế, năm nào miền Trung cũng phải đối mặt với những hình thế này.
Nếu nhìn vào đợt mưa rất lớn ở Khánh Hòa, Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum những ngày qua, ta thấy khá rõ bức tranh đó.
Không khí lạnh tăng cường mạnh tràn xuống sát Nam Trung Bộ, va vào dãy Trường Sơn Nam tạo nên các dải gió thổi vào dải bờ biển Đắk Lắk - Khánh Hòa.
Trong lúc này, ở các tầng khí quyển thấp (khoảng từ 925 đến 700 hPa), xuất hiện một dải gió đông rất mạnh. Luồng gió này mang theo lượng hơi ẩm lớn từ ngoài biển thổi thẳng vào đất liền. Khi gặp dãy núi ven biển, khối không khí ẩm bị chặn lại, buộc phải bốc lên cao và gây mưa lớn theo kiểu mưa địa hình, kéo dài nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày.
Cùng lúc đó, áp cao cận nhiệt đới hoạt động mạnh và bền vững, giữ cho gió đông ẩm duy trì liên tục trong thời gian dài. Hệ quả là mưa không chỉ rơi một đợt rồi dứt, mà còn tiếp tục trút xuống ngay đúng những khu vực đã ngập, khiến tình trạng úng lụt ngày càng trầm trọng.
Trên nền các yếu tố đó, rãnh thấp xích đạo và các dao động khí quyển vùng xích đạo lại hoạt động mạnh, làm cho khí quyển thêm nhiễu động. Điều này khiến mưa rất khó kết thúc, cứ ngắt quãng rồi lại mưa trở lại.
Xã Hòa Thịnh, rốn lũ của tỉnh Đắk Lắk ngập nặng sau đợt mưa, lũ lịch sử từ 16-22/11 vừa qua. Ảnh: Tuấn Trần.
Đợt mưa này thể hiện điểm đặc biệt của thiên tai năm 2025, gói gọn trong ba từ: “tổ hợp, kéo dài, khuyếch đại”.
Tổ hợp nghĩa là nhiều hình thế thời tiết nguy hiểm cùng lúc xuất hiện và chồng lên nhau. Ví dụ: không khí lạnh mạnh tràn xuống đúng thời điểm dải gió đông đang hoạt động, lại thêm rãnh thấp xích đạo dịch chuyển lên phía bắc. Những “mảnh ghép” này khớp với nhau, tạo thành một “cỗ máy sinh mưa” hoạt động gần như tối đa hiệu suất.
Kéo dài là do mưa lớn không chỉ xảy ra trong một đợt, mà nối tiếp hết đợt này sang đợt khác. Đất đai đã no nước, sông suối không kịp thoát lũ. Vì vậy, chỉ cần thêm vài ngày mưa là lũ đã vượt mức lịch sử.
Khuyếch đại xuất phát từ việc nhiệt độ bề mặt Biển Đông ấm hơn trung bình nhiều năm, khiến không khí chứa nhiều hơi nước hơn trước. Do đó, với cùng một kiểu hình thời tiết, lượng mưa xảy ra lần này cao hơn đáng kể so với 10-20 năm trước.
Lũ lịch sử trên nhiều sông miền Trung vừa qua chính là “sản phẩm” của sự cộng hưởng này: hình thế thì quen nhưng nền khí hậu và điều kiện bề mặt đã khác, kết quả đã gây nên một đợt mưa lũ cực đoan hơn rất nhiều.
Phải dự báo tác động khi nào, ở đâu
Từ thực tế thiên tai vừa qua tại Trung Bộ, theo quan điểm của ông, Việt Nam cần đầu tư đến mức nào nữa để dự báo được mưa lớn bất thường và tai biến liên quan như sạt lở, lũ lớn?
Có thể khẳng định, công tác dự báo khí tượng thủy văn của Việt Nam đã có bước tiến rất rõ nét trong những năm gần đây, dưới sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Chính phủ. Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 10 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khí tượng thủy văn, cùng với các quyết định của Chính phủ về hiện đại hóa ngành (trong đó có Quyết định số 1970/QĐ-TTg ngày 23/1/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Khi tượng Thủy văn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045). Đây là nền tảng quan trọng để đầu tư đồng bộ cho mạng lưới quan trắc, hệ thống ra đa, vệ tinh, định vị sét và trung tâm dự báo quốc gia.
Một minh chứng rất rõ là trong mùa bão năm 2025, dự báo bão đã được nâng thời hạn sớm từ 3 ngày trước đây lên khoảng 5 ngày, giúp mở rộng “cửa sổ hành động” cho chính quyền và người dân. Bên cạnh đó, dự báo quỹ đạo bão đã đạt độ tin cậy cao, sai số giảm đáng kể, đặc biệt trong 48-72 giờ trước khi bão đổ bộ. Dự báo cường độ và mưa do bão cũng ngày càng sát thực tế hơn, giúp các địa phương chủ động hơn trong việc sơ tán dân, vận hành hồ chứa và bảo vệ hạ tầng trọng yếu.
Nhờ vậy, trong hầu hết các đợt mưa lớn năm 2025, cơ quan khí tượng đã cảnh báo sớm trước vài ngày, sau đó là các bản tin ngắn hạn, rất ngắn hạn. Nhiều địa phương chủ động cho học sinh nghỉ học, vận hành hồ chứa, cấm biển, sơ tán dân… trên cơ sở các bản tin dự báo này. Đó là minh chứng rất rõ cho mức độ hiện đại hóa của hệ thống dự báo hiện nay.
Đợt mưa lũ vừa qua, tỉnh Đắk Lắk đã cảnh báo căn cứ theo mực nước lũ 2009 cộng thêm 0,3-0,5m. Tổng cộng hơn 28.000 người được sơ tán, gấp 3 lần kịch bản dự kiến nhưng thiệt hại vẫn rất nặng nề. Ảnh: VGP/Gia Huy.
Tuy nhiên, để dự báo chính xác mưa lớn bất thường đến từng xã, phường, đồng thời cảnh báo cụ thể nguy cơ lũ quét, sạt lở đất, chúng ta vẫn còn nhiều việc phải tiếp tục hoàn thiện. Ngành khí tượng thủy văn cần được đầu tư bài bản, đúng định hướng các nghị quyết và chiến lược đã ban hành, tập trung vào bốn trọng tâm chính.
Thứ nhất, tăng mật độ trạm quan trắc và cảm biến địa phương, nhất là trạm đo mưa tự động; đồng thời đầu tư hạ tầng tính toán hiệu năng cao (HPC, GPU) để xử lý nhanh khối lượng dữ liệu rất lớn.
Thứ hai, phát triển các mô hình dự báo số trị có độ phân giải cao, chạy dưới dạng siêu tổ hợp trên hệ thống máy tính có hiệu năng cao, nhằm mô phỏng chi tiết hơn diễn biến của mưa lớn, lũ và các hiện tượng cực đoan.
Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn, giúp máy tính tự động nhận dạng sớm các ổ dông mạnh, mưa đá, mưa cực đoan - vốn là những hiện tượng thường hình thành nhanh và khó dự báo bằng phương pháp truyền thống.
Và quan trọng hơn cả, là xây dựng hệ thống dự báo tác động. Hệ thống này không chỉ dừng ở con số lượng mưa hay mực nước, mà sẽ chuyển các dữ liệu đó thành bản đồ ngập lụt, điểm có nguy cơ sạt lở, tuyến đường bị chia cắt. Từ đó, chính quyền địa phương có thể chủ động sơ tán dân, bố trí lực lượng, đóng đường hoặc bảo vệ công trình một cách kịp thời, thay vì chỉ “biết mưa to, lũ lớn” chung chung như trước.
Nói cách khác, chúng ta đã có nền tảng tốt nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Chính phủ, nhưng để theo kịp tốc độ gia tăng rủi ro thiên tai trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hoạt động đầu tư cho dự báo, cảnh báo cần được coi là hạ tầng thiết yếu, đi cùng với đường sá, điện nước và y tế, giáo dục.
Kịch bản ứng phó chi tiết đến cấp xã, thôn
Với kinh nghiệm trong việc xây dựng các kịch bản thiên tai tác động đến Việt Nam, Viện có khuyến cáo gì trong việc xây dựng các kịch bản thiên tai tác động đến từng địa phương đi kèm với hành động ứng phó cụ thể?
Thực tế cho thấy, chúng ta cần một sự chuyển dịch căn bản về tư duy: từ phòng tránh thiên tai sang chủ động quản trị rủi ro thiên tai dựa trên khoa học, dữ liệu và tiến bộ công nghệ kỹ thuật. Quản trị rủi ro không phải là chờ có bão, lũ mới ứng phó, mà là chủ động nhận diện, đánh giá mức độ nguy hiểm và kiểm soát rủi ro ngay từ khâu quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội.
Từ kinh nghiệm thực tiễn, Viện khuyến nghị các địa phương xây dựng kịch bản thiên tai theo những định hướng sau.
Trước hết, kịch bản phải dựa trên cơ sở khoa học và dữ liệu khí hậu hiện đại, không chỉ dựa vào số liệu cũ. Cần sử dụng kịch bản biến đổi khí hậu, các ngưỡng mưa cực đoan mới, cùng với bản đồ ngập lụt, lũ quét, sạt lở được chi tiết hóa đến tận cấp xã, thôn, để sát với điều kiện thực tế từng nơi.
Tiếp theo, cần chuyển từ dự báo “bao nhiêu mm mưa” sang dự báo “sẽ xảy ra tác động gì và ở đâu”. Ví dụ, thay vì chỉ nói mưa rất to, cần chỉ rõ tuyến đường nào có thể bị chia cắt, khu dân cư nào có nguy cơ ngập sâu, điểm nào dễ sạt lở, và khoảng bao nhiêu hộ dân sẽ phải sơ tán.
Mưa lũ gây thiệt hại nặng nề, nhiều người mất trắng tài sản. Ảnh. Tuấn Trần.
Bên cạnh đó, phải xây dựng các ngưỡng hành động cụ thể. Khi lượng mưa vượt mức nguy hiểm hoặc mực nước chạm ngưỡng báo động, hệ thống sẽ tự động kích hoạt các phương án như sơ tán dân, cấm đường, bảo vệ hồ đập, di dời người dân ra khỏi vùng nguy hiểm, thay vì chờ chỉ đạo thủ công từng bước.
Một nội dung rất quan trọng khác là lồng ghép kịch bản rủi ro vào quy hoạch phát triển. Các quy hoạch về đô thị, giao thông, thủy lợi hay khu dân cư mới cần dựa trên bản đồ rủi ro khí hậu, chứ không chỉ dựa vào số liệu mưa lũ trong quá khứ như trước đây.
Cuối cùng, cần nâng cao năng lực của địa phương trong quản trị rủi ro thông qua đào tạo cán bộ, xây dựng quy trình ứng phó theo từng kịch bản cụ thể, tổ chức diễn tập định kỳ và thường xuyên cập nhật kịch bản sau mỗi đợt thiên tai.
Có thể nói, trong bối cảnh biến đổi khí hậu khiến thiên tai ngày càng cực đoan và khó lường, điều quan trọng không chỉ là giảm thiệt hại khi sự cố đã xảy ra, mà là chủ động quản trị rủi ro từ sớm, dựa trên khoa học và phân tích tác động cụ thể cho từng địa phương. Đây chính là hướng đi bền vững để nâng cao khả năng chống chịu và bảo vệ an toàn cho người dân.
Trân trọng cảm ơn ông!


























