| Hotline: 0983.970.780

'Đếm gió, đo mưa' cho nông nghiệp:

Hướng đến dịch vụ khí hậu phổ biến cho nông dân

Thứ Tư 18/06/2025 , 12:38 (GMT+7)

Không chỉ giúp nông dân "né hạn, tránh mưa", việc phát triển dịch vụ khí hậu nông nghiệp giúp tăng khả năng chủ động thích ứng với khí hậu đang thay đổi từng ngày.

Thu hẹp khoảng cách từ dự báo đến quyết định sản xuất

Vụ Đông Xuân năm 2025, một số địa phương miền Bắc, miền Trung xôn xao vì xảy ra tình trạng lúa không kết hạt, hạt lép. Nông dân và cơ quan nông nghiệp địa phương đổ lỗi cho thời tiết bất thường, nhiều đợt mưa lạnh đúng thời kỳ lúa trỗ bông, nở hoa thụ phấn, chín sữa. Trong khi đó, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, các chuyên gia nông nghiệp cũng chỉ ra một nguyên nhân quan trọng không kém: Nhiều diện tích lúa đã được gieo cấy sớm so với lịch thời vụ, vì vậy thời kỳ trỗ bông sớm đúng vào lúc thời tiết bất thường.

Tạm không nói đến trách nhiệm thuộc về ai, trong điều kiện thời tiết bất thường, việc tuân thủ khuyến cáo sản xuất từ ngành nông nghiệp rất quan trọng.

Một buổi tập huấn cho cán bộ khuyến nông về nông nghiệp chống chịu biến đổi khí hậu. Ảnh: TN.

Một buổi tập huấn cho cán bộ khuyến nông về nông nghiệp chống chịu biến đổi khí hậu. Ảnh: TN.

Trên mặt bằng chung, việc tiếp cận thông tin thời tiết của người dân chủ yếu dựa vào các kênh truyền thống như bản tin từ các cơ quan dự báo khí tượng thủy văn (Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, đài khu vực và tỉnh), khuyến cáo kỹ thuật từ ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cần phải nhìn nhận là các bản tin chuyên ngành thường mang tính kỹ thuật cao, khó hiểu và chưa thực sự tập trung đầy đủ vào các yếu tố thời tiết có tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Ví dụ như dự báo mưa nhưng chưa có đánh giá nhu cầu nước từng loại cây trồng, nguy cơ hạn hán đối với từng loại cây trồng, diễn biến sâu bệnh theo mùa vụ hay thời điểm gieo trồng tối ưu. Do đó có tình trạng nông dân thường canh tác theo kinh nghiệm qua nhiều năm sản xuất, dẫn đến trở tay không kịp khi thời tiết bất thường.

Theo TS. Nguyễn Hữu Quyền, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng nông nghiệp, dự báo khí tượng thủy văn (KTTV) là bài toán xác suất, không thể chính xác tuyệt đối về thời gian, không gian và cường độ của các hiện tượng khí hậu. Chính vì vậy, thách thức lớn không nằm ở việc "dự báo đúng 100%", mà là làm sao để người dân sử dụng thông tin dự báo một cách linh hoạt trong thực tế sản xuất; và làm sao để thông tin KTTV thực sự được lồng ghép hiệu quả vào quy trình ra quyết định ở địa phương.

Kinh nghiệm xây dựng các bản tin thời tiết nông nghiệp ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ cho thấy, thông tin cần được chuyển từ dạng “thời tiết – khí tượng thuần túy” sang dạng “khuyến cáo sản xuất”.

Kịch bản ứng phó cho cây nho - một trong những trồng chủ lực tại huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), được lồng ghép trong bản tin dự báo khí hậu nông nghiệp huyện từ ngày 11-20/6/2025. Ảnh: TN.

Kịch bản ứng phó cho cây nho - một trong những trồng chủ lực tại huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), được lồng ghép trong bản tin dự báo khí hậu nông nghiệp huyện từ ngày 11-20/6/2025. Ảnh: TN.

Lấy ví dụ, bản tin không chỉ nói “nhiệt độ sẽ cao hơn trung bình”, mà phải nêu rõ “nắng nóng kéo dài trong 10 ngày tới, cần lùi lịch xuống giống và tăng cường tưới nhỏ giọt vào sáng sớm”. Những bản tin như vậy, nếu được trình bày bằng hình ảnh, biểu tượng, màu sắc, hoặc ngôn ngữ dân dã thì sẽ dễ tiếp cận hơn với nông dân. Điều này càng hiệu quả hơn khi tuyên truyền tới người lớn tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo và người không biết chữ.

Bên cạnh đó, niềm tin đến từ kết quả thực tế, không phải từ độ chính xác tuyệt đối của dự báo. Sau khi có cảnh báo sớm về khô hạn hay mưa lớn, nông dân thay đổi thời vụ, lựa chọn giống ngắn ngày hoặc áp dụng tưới tiết kiệm – giúp giảm tổn thất và tăng năng suất. Đó chính là “trái ngọt” của công tác dự báo.

Cần có quy trình điều hành sản xuất lồng ghép thông tin dự báo

Để nâng cao vai trò chiến lược của thông tin KTTV trong các kế hoạch phát triển kinh tế và thích ứng biến đổi khí hậu, TS Nguyễn Hữu Quyền cho rằng, cần thay đổi cách tiếp cận: thông tin khí hậu phải được lồng ghép chính thức vào quy trình ra quyết định ở cấp xã, huyện, tỉnh. Cụ thể, các bản tin khí hậu mùa vụ có thể được sử dụng như là một thông tin tham khảo quan trọng trong việc xây dựng lịch thời vụ, kế hoạch cấp nước, phân bổ giống cây trồng, xây dựng kịch bản sản xuất thích ứng BĐKH tại địa phương. Ở một số địa phương thí điểm như Tuy Phong (Bình Thuận), Krông Nô (Đắk Nông), thông tin khí hậu đã được lồng ghép vào họp giao ban mùa vụ tại UBND xã, trở thành một thành phần không thể thiếu trong điều hành sản xuất.

Một hướng đi hiệu quả và cũng hoàn toàn phù hợp với định hướng chuyển đổi số đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đó là phát triển nền tảng dữ liệu số dùng chung, kết nối chặt chẽ giữa ngành khí tượng – thủy văn và ngành nông nghiệp – môi trường.

Một buổi tư vấn lồng ghép bản tin khí hậu nông nghiệp tại huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận năm 2024. Ảnh: TN.

Một buổi tư vấn lồng ghép bản tin khí hậu nông nghiệp tại huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận năm 2024. Ảnh: TN.

Những nền tảng này không chỉ giúp tích hợp dữ liệu thời tiết – khí hậu với dữ liệu sinh thái – canh tác (cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, thổ nhưỡng...) mà còn tạo điều kiện để hình thành các dịch vụ khí hậu nông nghiệp chuyên biệt theo từng vùng, từng loại hình sản xuất. Qua đó, người dân, hợp tác xã và chính quyền cơ sở có thể chủ động tra cứu, phân tích rủi ro và lập kế hoạch sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu ngay trên nền tảng số.

Về đào tạo và nâng cao năng lực, thiết thực nhất là thiết kế các chương trình tập huấn gắn với sản xuất cụ thể tại địa bàn. Hướng dẫn nông dân và cán bộ kỹ thuật cơ sở biết cách đọc – hiểu – áp dụng thông tin KTTV vào mùa vụ, tưới tiêu, lựa chọn giống và phòng trừ sâu bệnh. Đối tượng đào tạo cần mở rộng từ nông dân trực tiếp sản xuất đến cán bộ khuyến nông xã, cán bộ hợp tác xã, hội nông dân, hội phụ nữ... Họ chính là những người giúp hình thành thói quen sản xuất khoa học, tuân thủ các hướng dẫn của cơ quan chức năng.

Ngoài ra, cần đa dạng hóa hình thức truyền thông như: tờ rơi minh họa, video ngắn, bản tin bằng tiếng dân tộc, ứng dụng Zalo mini-app... nhằm tiếp cận hiệu quả hơn với người dân ở vùng sâu, vùng xa.

Thể chế hóa hoạt động tư vấn khí hậu

Thời tiết sẽ ngày càng bất thường và nông dân không thể mãi cam chịu khi thiên tai làm cạn kiệt nguồn lực cho sản xuất. Hoạt động tư vấn khí hậu hướng đến đối tượng cụ thể như nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp là nhu cầu cấp thiết hiện nay. Theo ông Vũ Thái Trường, Quyền Trưởng phòng Biến đổi khí hậu và Môi trường (UNDP Việt Nam), Việt Nam cần thể chế hóa hoạt động tư vấn khí hậu nông nghiệp như một hợp phần chính thức trong các chương trình mục tiêu quốc gia và các kế hoạch hành động về biến đổi khí hậu.

Hoạt động tư vấn khí hậu hướng đến đối tượng cụ thể như nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp với mục đích chủ động quản lý sản xuất, tránh tác động từ thời tiết cực đoan. Ảnh: TN.

Hoạt động tư vấn khí hậu hướng đến đối tượng cụ thể như nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp với mục đích chủ động quản lý sản xuất, tránh tác động từ thời tiết cực đoan. Ảnh: TN.

Đặc biệt, việc xây dựng, ban hành và triển khai Khung dịch vụ khí hậu quốc gia (NFCS) theo khuyến nghị của Tổ chức Khí tượng Thế giới là một giải pháp chính sách mang tính chiến lược và lâu dài. Đối với ngành nông nghiệp, NFCS là nền tảng giúp phát triển dịch vụ khí hậu nông nghiệp một cách bền vững – từ dự báo khí hậu, cảnh báo rủi ro thiên tai đến hỗ trợ ra quyết định tưới tiêu, chọn giống và phòng trừ bệnh hại.

NFCS cũng giúp chuẩn hóa quy trình trao đổi dữ liệu và phối hợp thông tin giữa các cơ quan dự báo và các đơn vị chuyên môn của ngành nông nghiệp, góp phần giảm chồng chéo, tăng hiệu quả và độ tin cậy của thông tin khí hậu nông nghiệp. 

Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế để tiếp cận công nghệ, mô hình tiên tiến và huy động nguồn lực kỹ thuật, tài chính. Việc thiết lập cơ chế tài chính bền vững cho các dịch vụ khí hậu có thể được lồng ghép vào ngân sách địa phương, hợp tác công – tư và triển khai các công cụ bảo hiểm rủi ro khí hậu trong nông nghiệp.

"Cuối cùng, cần xây dựng các chiến dịch truyền thông mạnh mẽ và sáng tạo để nâng cao nhận thức và khuyến khích người dân sử dụng thông tin khí hậu trong sản xuất. Có thể đặt mục tiêu cụ thể khoảng 1 triệu lượt tiếp cận thông tin mỗi năm qua các kênh khác nhau", ông Trường nhấn mạnh.

Xem thêm

Bình luận mới nhất