Thị trường tuân thủ và thị trường tự nguyện
Thị trường các-bon tại Việt Nam đang ở giai đoạn hình thành ban đầu và được đánh giá là một công cụ chính sách có ý nghĩa chiến lược trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy tăng trưởng xanh. Theo ông Nguyễn Thành Công, Phó trưởng Phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), về cơ bản, thị trường các-bon ở Việt Nam gồm hai hợp phần chính: thị trường các-bon tuân thủ và thị trường tín chỉ các-bon tự nguyện.
Thị trường các-bon tuân thủ (ETS) là nơi giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính, loại “hàng hóa” do Nhà nước phân bổ cho các cơ sở phát thải lớn. Từ đó, Nhà nước sẽ từng bước cắt giảm tổng lượng phát thải khí nhà kính của các ngành, lĩnh vực phát thải lớn. Trong giai đoạn đầu, đối tượng được phân bổ hạn ngạch chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực phát thải cao, bao gồm nhiệt điện, sản xuất sắt thép và xi măng. Việc phân bổ hạn ngạch này do Chính phủ thực hiện, cụ thể là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nhằm kiểm soát và từng bước giảm tổng lượng phát thải của nền kinh tế.
Ông Nguyễn Thành Công, Phó trưởng Phòng Thị trường các-bon, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chia sẻ tại talk show "Làm gì để mua-bán các-bon tại Việt Nam" trên Báo Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Viết Dũng.
Song song với đó là thị trường tín chỉ các-bon (thị trường tự nguyện), nơi hàng hóa giao dịch là các tín chỉ các-bon được tạo ra từ các dự án hoặc biện pháp giảm phát thải khí nhà kính. Các doanh nghiệp, tổ chức không thuộc diện được phân bổ hạn ngạch có thể chủ động đầu tư vào các hoạt động giảm phát thải để tạo tín chỉ và tham gia mua bán trên thị trường trong nước hoặc quốc tế. Qua đó, thị trường tự nguyện không chỉ tạo thêm nguồn cung tín chỉ cho thị trường tuân thủ mà còn góp phần hình thành động lực giảm phát thải chung cho toàn nền kinh tế.
Về bản chất, tín chỉ các-bon là một hang hóa có thể giao dịch, đại diện cho một lượng giảm hoặc hấp thụ khí nhà kính đã được xác nhận. Để tạo ra tín chỉ các-bon, chủ dự án phải trải qua nhiều bước chặt chẽ như xây dựng văn kiện dự án, triển khai hoạt động giảm phát thải, đo đạc - báo cáo - thẩm tra (MRV) lượng giảm phát thải, và cuối cùng được cơ quan có thẩm quyền xác nhận, ban hành tín chỉ. Sau đó, các tín chỉ này có thể được giao dịch trên thị trường các-bon trong nước hoặc quốc tế.
Doanh nghiệp có thể vay mượn hạn ngạch
Theo ông Nguyễn Thành Công, giai đoạn thí điểm thị trường các-bon của Việt Nam đến năm 2028 có mục tiêu cốt lõi là giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các cơ sở phát thải lớn, làm quen với các khái niệm, nguyên tắc và cơ chế vận hành của thị trường các-bon, cũng như các quy trình liên quan đến kiểm kê, báo cáo và tuân thủ phát thải khí nhà kính.
Thị trường các-bon của Việt Nam trong giai đoạn thí điểm có một số đặc điểm nổi bật. Trước hết, mục tiêu trọng tâm của giai đoạn này là giúp các doanh nghiệp làm quen với cơ chế vận hành của thị trường, đồng thời giảm gánh nặng chi phí tuân thủ. Vì vậy, hạn ngạch phát thải khí nhà kính sẽ được phân bổ miễn phí cho các doanh nghiệp. Cách tiếp cận này khác với các thị trường các-bon đã bước vào giai đoạn hoàn thiện tại nhiều quốc gia như châu Âu, Trung Quốc hay Hàn Quốc, nơi việc phân bổ hạn ngạch chủ yếu được thực hiện thông qua đấu giá. Đây là cách tiếp cận thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế trong giai đoạn khởi đầu.
Doanh nghiệp áp dụng các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính, điển hình là lắp đặt hệ thống pin mặt trời mái nhà. Ảnh: Khánh Ly.
Bên cạnh đó, cơ chế thí điểm được thiết kế với mức độ linh hoạt cao. Doanh nghiệp được phép vay mượn hạn ngạch giữa các giai đoạn, chuyển giao hạn ngạch chưa sử dụng sang giai đoạn sau, cũng như sử dụng tín chỉ các-bon để bù trừ cho phần phát thải vượt hạn ngạch. Lấy ví dụ, để đáp ứng hạn ngạch giai đoạn 2025-2026, doanh nghiệp đã có kế hoạch đầu tư các biện pháp giảm phát thải nhưng các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả vào giai đoạn 2027-2028. Doanh nghiệp có thể vay mượn hạn ngạch của giai đoạn 2027-2028 để sử dụng cho giai đoạn 2025-2026.
Mặt khác, doanh nghiệp cũng được phép chuyển giao lượng hạn ngạch phát thải khí nhà kính chưa sử dụng hết sau khi hoàn thành nộp trả của giai đoạn hiện tại sang giai đoạn kế tiếp. Những cơ chế này giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong kế hoạch đầu tư giảm phát thải, nhất là khi nhiều giải pháp công nghệ cần thời gian để phát huy hiệu quả.
Trong suốt quá trình thí điểm từ nay đến năm 2028, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường tính minh bạch, linh hoạt và hiệu quả của thị trường, tạo nền tảng cho việc mở rộng và vận hành chính thức trong giai đoạn tiếp theo.
























