Kinh nghiệm đắt giá
Nằm phía hạ lưu sông Hậu, huyện Cù Lao Dung (tỉnh Sóc Trăng) là khu vực giao thoa giữa các con nước ngọt - lợ - mặn. Do đó, việc vận hành hệ thống thủy lợi cũng có những đặc thù riêng, đòi hỏi sự nhịp nhàng để phục vụ tốt vùng nuôi tôm và trồng cây ăn trái.
Trước năm 2015, con nước ở cù lao vẫn theo quy luật “mưa thuận, gió hòa”, người dân không gặp nhiều khó khăn trong việc lấy nước ngọt phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, mùa khô 2015-2016, nước mặn “trở chứng” vào sâu và nhanh, khiến bà con không kịp trở tay.

Loa phóng thanh là phương tiện truyền tải thông tin dự báo hạn mặn chủ yếu ở Sóc Trăng trước năm 2015. Ảnh: Kim Anh.
Nhớ lại những ngày tháng khó khăn đó, ông Nguyễn Văn Đắc, Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Cù Lao Dung không giấu được sự bùi ngùi. Ông kể, khi ấy, việc tiếp cận các bản tin dự báo hạn mặn từ tỉnh chuyển về chủ yếu bằng bản fax hoặc văn bản giấy, định kỳ 2-3 ngày/lần.
Chi cục Thủy lợi tỉnh Sóc Trăng đang quản lý 160 cống lớn (trên 1,5m), trong tổng số hơn 650 cống trên toàn tỉnh. Mùa khô 2025, dù độ mặn cao hơn trung bình nhiều năm, nhưng nhờ có bản tin dự báo chính xác, ngành chuyên môn đã kịp thời chỉ đạo vận hành các cống.
Mạng xã hội chưa phát triển, việc truyền tải các bản tin đến người dân chủ yếu thực hiện trên Đài truyền thanh. Thế nhưng, hạ tầng thời đó cũng hạn chế, loa phóng thanh nơi có, nơi không. Ngành chuyên môn phải kết hợp tổ chức các buổi họp dân hoặc mở lớp tập huấn trực tiếp, nhưng số lượng tham gia cũng không đầy đủ. Do tiếp nhận thông tin chậm, khiến việc lấy nước ngọt, ngăn mặn không kịp thời, dẫn đến thiệt hại không nhỏ.
Thời điểm đó, Cù Lao Dung chỉ là một trong số nhiều địa phương ở Sóc Trăng chịu thiệt hại do công tác dự báo hạn mặn chưa theo kịp thực tế. Thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng, hạn mặn 2015-2016 gây thiệt hại gần 28.000 ha lúa, 4.000 ha cây ăn trái và 215 ha rau màu.
Rút kinh nghiệm từ quá khứ, những năm sau đó, tỉnh mạnh dạn đầu tư nhiều công trình ứng phó như: nâng cấp đê điều, kiên cố hệ thống cống, bọng; xây dựng kịch bản ứng phó từ sớm; đầu tư nhiều điểm quan trắc độ mặn trên các nhánh sông chính, các vùng sản xuất trọng điểm nhất. Đặc biệt tỉnh chú trọng tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho bà con.
Nhờ đó, mùa khô 2019-2020, công tác dự báo hạn mặn đã có chuyển biến rõ rệt. Thiệt hại chỉ còn hơn 500 ha lúa, chủ yếu do mưa trái mùa khiến người dân sạ lại trễ, không kịp né mặn.

Cống âu Rạch Mọp - công trình thủy lợi trọng điểm ở Sóc Trăng đưa vào sử dụng, giúp giữ ngọt hiệu quả cho vùng Kế Sách và một phần huyện Long Phú. Ảnh: Kim Anh.
Ông Phạm Tấn Đạo, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Sóc Trăng đánh giá, việc vận hành hệ thống thủy lợi phụ thuộc rất lớn vào các bản tin dự báo hạn mặn. Hiện nay, các bản tin từ cơ quan khí tượng trung ương và địa phương được cập nhật đều đặn và duy trì mỗi ngày trong suốt mùa khô (từ tháng 1-5).
Ngay khi nhận được, đơn vị chuyển đến Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai các huyện, Báo và Đài Phát thanh Truyền hình Sóc Trăng… để kịp thời thông tin đến cơ quan chuyên môn địa phương và người dân. Đồng thời, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cũng cung cấp các bản tin có tính chiến lược, quy mô toàn vùng. Vì vậy, Sóc Trăng có thể chủ động lên kế hoạch tích trữ nước ngọt từ sớm.
Công nghệ dự báo hạn mặn có độ chính xác cao
Theo Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, từ sau năm 2010, các đợt hạn mặn ở ĐBSCL diễn ra liên tục và nghiêm trọng. Mặc dù Chính phủ và các địa phương đã tập trung đầu tư hoàn chỉnh các hệ thống công trình thủy lợi, nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu phòng chống thiên tai.

Ông Đỗ Đức Dũng - Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam nhấn mạnh vai trò của công tác dự báo hạn mặn. Ảnh: Kim Anh.
Trong bối cảnh đó, công tác dự báo khí tượng thủy văn giữ vai trò then chốt, giúp các địa phương xây dựng kế hoạch sử dụng nước và ứng phó hiệu quả với các hình thái thiên tai. Đặc biệt là dự báo hạn mặn - thách thức đang gia tăng do tác động kép từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng và hoạt động vận hành các hồ chứa thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong.
Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam Đỗ Đức Dũng nhận định, công tác dự báo không chỉ phục vụ lập kế hoạch vận hành hệ thống công trình thủy lợi phù hợp, mà còn tăng cường khả năng tích trữ và lấy nước.
Hiện nay, với sự hỗ trợ của các mô hình thủy văn – thủy lực hiện đại kết hợp với công nghệ viễn thám và trí tuệ nhân tạo (AI), công tác dự báo thủy văn ngày càng đạt độ chính xác cao hơn, dự báo hạn mặn theo thời gian thực. Đây là cơ sở nền tảng để chuyển từ thế ứng phó bị động sang chủ động thích ứng, hướng tới quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực và liên vùng.

Các bản tin dự báo hạn mặn giúp các địa phương chủ động vận hành các công trình thủy lợi, giảm thiểu thiệt hại. Ảnh: Kim Anh.
Minh chứng, hạn mặn 2019-2020 dù đến sớm, sâu và kéo dài hơn so với giai đoạn 2015-2016, thế nhưng thiệt hại lại thấp hơn đáng kể. Điều này khẳng định, năng lực dự báo hạn mặn đã được cải thiện và nâng cao. Quan trọng hơn là sự chủ động và phối hợp hiệu quả giữa Trung ương và địa phương trong điều hành sản xuất, vận hành công trình và truyền thông ứng phó.
Hiện nay, ngoài các bản tin dự báo thủy văn do Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Trung ương cung cấp, Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam còn có các bản tin dự báo, cảnh báo nguồn nước mùa lũ, Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam cập nhật bản tin dự báo hạn mặn. Những thông tin này là cơ sở khoa học cho Bộ và các địa phương lập kế hoạch sản xuất, kịch bản điều hành công trình phù hợp theo từng thời điểm, từng vùng.
Nhờ nắm bắt kịp thời thông tin dự báo hạn mặn, nhiều địa phương như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Long An… đã hành động từ rất sớm, thể hiện rõ tư duy “né mặn – đón ngọt”, giảm thiểu thiệt hại trong sản xuất và sinh hoạt.
Từ thực tiễn này, ông Dũng nhấn mạnh, bài học quan trọng là công tác dự báo hạn mặn cần được tích hợp sớm vào chuỗi ra quyết định; tức thực hiện từ cuối tháng 9, đầu tháng 10, trước khi bước vào vụ đông xuân.
Đồng thời, các thông tin dự báo cần được thể chế hóa trong các kế hoạch, văn bản chỉ đạo điều hành; tăng cường khả năng phối hợp liên ngành, truyền đạt thông tin đến cấp huyện, xã để nâng cao hiệu quả ứng phó.

Các địa phương ĐBSCL cần tăng cường phối hợp vận hành công trình liên hệ thống; nâng cao năng lực dự báo hạn mặn nói riêng và thiên tai nói chung. Ảnh: Kim Anh.
Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cũng kiến nghị xây dựng cơ chế quản lý dữ liệu dùng chung giữa các tỉnh, thành và các bộ, ngành; trọng tâm về thủy văn, khí tượng, mực nước, độ mặn và vận hành công trình.
Đồng thời, Viện kiến nghị Chính phủ thúc đẩy đàm phán để các quốc gia thượng lưu sông Mekong chia sẻ thông tin về sử dụng nước, vận hành hồ chứa. Ngoài ra, cần bố trí ngân sách đầu tư nâng cấp mạng quan trắc tự động và hỗ trợ các địa phương trong đào tạo, ứng dụng mô hình dự báo.