Sáng 16/10, thực hiện nhiệm vụ do Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi tổ chức Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”.

Các đại biểu dự Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”, sáng 16/10.
Diễn đàn được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến, với sự tham dự của lãnh đạo, đại diện các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các địa phương, Bộ, ngành Trung ương, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, hiệp hội và nhà đầu tư khu vực phía Nam (từ Gia Lai trở vào)…
Tổng thuật: Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”
Sự kiện tập trung trao đổi các vấn đề then chốt như: công tác nước sạch nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững; khó khăn, vướng mắc trong quản lý phù hợp mô hình chính quyền hai cấp; ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý, khai thác công trình cấp nước tập trung; và giải pháp vận hành hiệu quả hệ thống nước sạch nông thôn.

Diễn đàn kỳ vọng sẽ thu hút nhiều sáng kiến, giải pháp thiết thực, đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư và phát triển lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Ảnh: Tapchinuoc.
Phần tọa đàm của diễn đàn sẽ đi sâu thảo luận các nhóm nội dung lớn như tăng cường đầu tư hạ tầng cấp nước nông thôn gắn với chuyển đổi số; hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa dịch vụ nước sạch; nâng cao nhận thức cộng đồng về vệ sinh, bảo vệ nguồn nước; gắn kết chương trình nước sạch với nông nghiệp công nghệ cao, tuần hoàn, giảm phát thải; và đặc biệt, xác định vai trò trung tâm của nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh.
11h30
Tăng tốc đầu tư xã hội hóa nước sạch nông thôn
Kết luận Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”, ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), ghi nhận sự tham gia tích cực, đóng góp ý kiến của các bên trong chương trình.
Diễn đàn lần này đã ghi nhận ba bài tham luận quan trọng, đề cập toàn diện đến các vấn đề cốt lõi như tổng quan về nước sạch nông thôn, chuyển đổi số trong quản lý, ứng dụng công nghệ trong khai thác - vận hành công trình, cùng những khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ trong giai đoạn tới.

Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), chia sẻ, cần nhiều giải pháp để nâng tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước sạch lên 80% vào năm 2030.
Trong quá trình thảo luận, Ban Tổ chức đã tiếp nhận 22 ý kiến và câu hỏi trực tiếp, cùng nhiều nội dung gửi về sau, phản ánh rõ sự quan tâm sâu sắc của các bên đối với mục tiêu đảm bảo cấp nước bền vững, gắn với phát triển nông nghiệp và nông thôn mới.
Theo ông Lương Văn Anh, lĩnh vực nước sạch nông thôn đã nhận được sự quan tâm, đầu tư lớn của Nhà nước và xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, hiện mới khoảng 58% người dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia, chỉ 8% sử dụng nước từ công trình cấp nước tập trung, còn 52% vẫn phải dùng nguồn nước từ công trình quy mô hộ hoặc nhóm hộ.
“Phần lớn người dân nông thôn vẫn chưa tiếp cận được với hệ thống cấp nước tập trung, nên để đảm bảo chất lượng nước đồng bộ và bền vững, chúng ta cần thêm nhiều giải pháp, sự quan tâm và đầu tư mạnh mẽ hơn nữa”, ông nhấn mạnh.
Diễn đàn do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức nhằm tìm kiếm các giải pháp thực tế, góp phần nâng tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước sạch lên 80% vào năm 2030. Đây không chỉ là mục tiêu về hạ tầng kỹ thuật, mà còn là nhiệm vụ an sinh xã hội, đặc biệt tại những vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn nước an toàn.
Phó Cục trưởng Lương Văn Anh khẳng định, để đạt được mục tiêu này, cần sự tham gia đồng bộ của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân, trong đó trọng tâm là thu hút đầu tư xã hội hóa vào lĩnh vực cấp nước nông thôn. “Diễn đàn hôm nay sẽ là cơ hội để các bên trao đổi sâu hơn, cùng đề xuất những giải pháp thiết thực, giúp cơ quan quản lý có thêm căn cứ tham mưu chính sách, tháo gỡ khó khăn và triển khai hiệu quả trong thực tiễn”, ông nói.
11h25

Nhà báo Vũ Minh Việt, Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường bổ sung ý kiến về việc áp dụng chuyển đổi số vào các công trình cấp nước tập trung.
Ông Châu Văn Tùng cho biết, việc áp dụng chuyển đổi số vào các công trình cấp nước tập trung ở các xã thuộc Vĩnh Long phụ thuộc vào 2 yếu tố: kinh phí và nhân lực. Ông Vũ Minh Việt bổ sung thêm, để triển khai chuyển đổi số hiệu quả cần đầu tư công nghệ và trang thiết bị phù hợp. Quá trình vận hành sẽ đòi hỏi thời gian thử nghiệm, đào tạo cán bộ, xây dựng quy trình quản lý dữ liệu và bảo trì lâu dài. Các vấn đề chi tiết sẽ được trao đổi trong các buổi làm việc tiếp theo để đảm bảo tính khả thi và bền vững.
11h10
Chủ động liên hệ yêu cầu giải quyết các công trình cấp nước đã xuống cấp
Trả lời về vấn đề thống kê, định giá tài sản và kêu gọi nhà đầu tư đối với các công trình cấp nước đã xuống cấp, ông Lương Văn Anh - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cho biết, đơn vị sẽ trực tiếp làm việc nếu có đề xuất từ các địa phương, tham mưu cho Bộ xem xét, hướng dẫn cụ thể.

Ông Lương Văn Anh - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi - giải đáp các thắc mắc tại diễn đàn.
Nhìn chung, tại các địa phương, khi công trình bị hư hỏng như do bão lũ gần đây, các địa phương chủ động phối hợp, huy động nguồn vốn để sửa chữa, khắc phục, đơn vị vận hành khai thác cũng chủ động bố trí kinh phí để đảm bảo hoạt động cấp nước không bị gián đoạn.
Về công tác quản lý, các đơn vị cấp nước và cung cấp nước sạch cho người dân, ông Văn Anh cho biết, sẽ tổng hợp ý kiến khi UBND tỉnh bàn giao các công trình do Nhà nước đầu tư sang đơn vị tư nhân quản lý, theo đúng quy định của Luật Đấu thầu.
Đối với các công trình cấp nước tập trung, hiện vẫn còn thiếu hướng dẫn cụ thể về chính sách quản lý, khai thác và duy tu. Nhiều công trình mới hoàn thành trong thời gian gần đây nằm trong các dự án lớn, song việc hướng dẫn để đảm bảo hiệu quả, tính bền vững và đầu tư theo đúng nhu cầu người dân vẫn chưa được ban hành đầy đủ.

Đối với các công trình cấp nước tập trung, hiện vẫn còn thiếu hướng dẫn cụ thể về chính sách quản lý, khai thác và duy tu. Ảnh minh họa: Yên San/Báo Lao động.
Liên quan tới vấn đề này, trả lời câu hỏi từ xã Nâm Nung (Lâm Đồng) về việc có ban hành sổ tay hướng dẫn quản lý vận hành công trình nước sạch tại khu vực Tây Nguyên, ông Lương Văn Anh nói: Trước đây, trong khuôn khổ Chương trình Mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng bộ tài liệu này. Tuy nhiên, từ sau năm 2020, việc sử dụng bộ tài liệu này tại địa phương dần thưa vắng do các cán bộ đã vận hành công trình theo kinh nghiệm và thực tiễn. Phía Cục Quản lý và Xây dựng Công trình thủy lợi sẵn sàng cập nhật, tái bản tài liệu nếu có nhu cầu chính thức từ các địa phương.
Ông cũng nhấn mạnh, nếu xã nào, địa phương nào cần bản hướng dẫn, chỉ cần gửi đề nghị về Cục Quản lý và Xây dựng Công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) sẽ hỗ trợ bản cập nhật phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Bên cạnh đó, một trong những vướng mắc phổ biến được đại biểu các địa phương nêu là quy định bắt buộc phải lập đề án cấp phép khai thác nước mặt cho các công trình có quy mô trên 400 m³/ngày, kể cả khi dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Quy định này làm phát sinh chi phí lớn (trung bình hơn 100 triệu đồng/tháng), đồng thời kéo dài thời gian triển khai, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ cấp nước cho dân và khả năng thu hút đầu tư.
Ông Lương Văn Anh khẳng định: Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang rà soát các nghị định, văn bản dưới luật nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn trong giải ngân đầu tư công, trong đó có nội dung nêu trên. Các tỉnh cần chủ động tổng hợp, gửi kiến nghị cụ thể để Bộ Nông nghiệp và Môi trường có cơ sở tham mưu sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là với các công trình đã có quyết định đầu tư của tỉnh hoặc Bộ, tránh lãng phí và chồng chéo.

Về lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng bộ định mức kỹ thuật dành riêng cho công trình cấp nước nông thôn. Ảnh minh họa.
Đối với nội dung nhiều địa phương phản ánh về việc chưa có hướng dẫn áp dụng bộ chỉ số theo dõi, đánh giá các chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cấp xã, ông Lương Văn Anh chia sẻ: Cục đã giao một đơn vị chuyên môn soạn thảo tài liệu hướng dẫn cụ thể. Trong tháng 10 hoặc muộn nhất tháng 11 năm nay, tài liệu này sẽ được ban hành để các địa phương kịp thời áp dụng đồng bộ, thống nhất từ cấp xã đến cấp tỉnh. Đây là tài liệu quan trọng nhằm giúp chính quyền địa phương có cơ sở triển khai, theo dõi sát tiến độ, hiệu quả cũng như tăng cường tính minh bạch trong thực hiện các chương trình.
Trả lời câu hỏi về việc bàn giao các công trình nhóm C theo Nghị định 43, trong khi nhiều dự án không có đầy đủ hồ sơ, ông Lương Văn Anh thừa nhận đây là thực trạng phổ biến. Có nơi thiếu quyết định phê duyệt, có nơi chỉ có hồ sơ thiết kế, hoặc thiếu biên bản quyết toán... Do vậy, với các trường hợp cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với Bộ Tài chính để ban hành văn bản hướng dẫn cách xác định giá trị bàn giao trong trường hợp thiếu hồ sơ.
Quan điểm nhất quán là phải xác định được giá trị đầu tư một cách hợp lý, thông qua hồ sơ tương đương hoặc thẩm định lại, nhằm đảm bảo công trình được bàn giao minh bạch, rõ ràng và sử dụng hiệu quả về sau.
Việc nhiều địa phương phản ánh khó khăn khi áp dụng Thông tư 45 của Bộ Tài chính về định mức tiêu hao và đơn giá cấp nước nông thôn, ông Lương Văn Anh cho biết: Trên thực tế, một số tỉnh như Hà Nam, Nam Định (cũ) đã áp dụng linh hoạt bằng cách dựa vào chi phí thực tế từ các nhà máy trong năm gần nhất, từ nhân công, điện, hóa chất đến khấu hao để xây dựng định mức xác thực. Đây là cách làm hiệu quả, có thể nhân rộng.
Về lâu dài, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng bộ định mức kỹ thuật dành riêng cho công trình cấp nước nông thôn, tránh việc phải áp dụng tạm theo Quyết định 90 về cấp nước đô thị. Khi chưa ban hành định mức chính thức, các địa phương có thể tính toán dựa vào dữ liệu vận hành thực tế từng công trình, từng vùng, từng mùa để đảm bảo tính chính xác và dễ thực thi.
Ngoài ra, liên quan câu hỏi vì sao chưa thấy chính quyền các địa phương rà soát, thống kê và định giá các công trình đã xuống cấp để thu hút nhà đầu tư xã hội hóa, ông Lương Văn Anh cho rằng đây là đề xuất xác đáng.
Tuy nhiên, việc này cần cụ thể hóa bằng từng trường hợp công trình cụ thể. Nếu có địa phương gửi thông tin chi tiết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp, hướng dẫn xác định giá trị tài sản, chuẩn bị hồ sơ mời gọi đầu tư theo hình thức đấu thầu hoặc hợp tác công tư (PPP).
Chủ trương chung là khuyến khích doanh nghiệp chuyển giao công nghệ, đầu tư cải tạo vận hành các hệ thống cấp nước hiện có, nhưng cần có sự chuẩn bị bài bản từ phía chính quyền cấp tỉnh và cấp xã.
11h05
Phát huy nguồn thu thủy lợi để giảm gánh ngân sách, chủ động kiểm soát hạn mặn
Công ty Khai thác Công trình Thủy lợi Miền Nam được Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao quản lý hồ Dầu Tiếng - Phước Hòa và 5 công trình thủy lợi quy mô lớn khác tại khu vực ĐBSCL.
Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch Nguyễn Việt Anh (ảnh) cho biết, ĐBSCL là vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán và xâm nhập mặn. Các năm 2015-2016, 2019-2020 và 2023-2024 được xem là những giai đoạn điển hình, ghi nhận mức độ hạn mặn nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ. Trong bối cảnh đó, hệ thống công trình thủy lợi đóng vai trò then chốt trong việc điều tiết, kiểm soát nguồn nước, ngăn mặn, giữ ngọt, phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội.

Theo ông Việt Anh, công tác điều hành, vận hành các hồ chứa và hệ thống thủy lợi hiện nay được thực hiện dựa trên cơ sở cảnh báo và dự báo nguồn nước chi tiết. Hằng năm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo các đơn vị chuyên môn triển khai dự báo nguồn nước, chất lượng nước theo tháng, theo mùa, thậm chí theo tuần; đồng thời ban hành các bản tin đột xuất để cập nhật tình hình, giúp các địa phương xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp, chủ động ứng phó với biến động thời tiết và nguồn nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nếu không tiếp tục đầu tư, nâng cấp đồng bộ hệ thống công trình thủy lợi, từ quy mô lớn đến nhỏ, thì rất khó kiểm soát hiệu quả tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn trong tương lai.
Ông Nguyễn Việt Anh cho biết, ngay từ khâu thiết kế và đầu tư, các công trình thủy lợi đã được tính toán để đáp ứng nhiều mục tiêu tổng hợp. Trong khu vực lòng hồ, ngoài phát điện thủy năng còn có thể khai thác điện mặt trời, phát triển du lịch sinh thái, dịch vụ… nhằm tận dụng tối đa tiềm năng và lợi thế của từng công trình.
Liên quan đến cơ chế tài chính, hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang phối hợp với Bộ Tài chính quy định mức giá dịch vụ thủy lợi (cấp nước thô) cho các hệ thống lớn ở mức khoảng 900 đồng/m³, áp dụng đối với các đơn vị khai thác, cấp nước sinh hoạt đô thị và khu công nghiệp.
Theo tinh thần Nghị định 96 về giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi và dự thảo sửa đổi sắp tới, mức giá này có thể được điều chỉnh tăng lên từ 1.100-1.300 đồng/m³, góp phần tạo nguồn thu ổn định và bền vững hơn cho công tác vận hành, bảo dưỡng các công trình.
Bên cạnh đó, ông Anh đề nghị các địa phương và đơn vị quản lý khai thác cần chủ động phát huy các nguồn thu hợp pháp khác. Với các hồ chứa có điều kiện, có thể đề xuất Bộ cho phép khai thác nguồn điện mặt trời trong lòng hồ - một hướng đi vừa tăng nguồn thu, vừa giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, tại khu vực Đồng bằng sông Hồng, một số địa phương cũng đã thí điểm thu phí tiêu nước đối với khu công nghiệp, tạo thêm nguồn lực tài chính cho công tác quản lý, vận hành và duy tu công trình thủy lợi.
Theo ông Nguyễn Việt Anh, việc khai thác hiệu quả các nguồn thu tiềm năng này, kết hợp với đầu tư hiện đại hóa hệ thống công trình, sẽ giúp ngành thủy lợi nâng cao năng lực chủ động trong điều tiết nước, bảo đảm an toàn công trình, đồng thời phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt.
10h55
ĐBSCL: Hàng chục nghìn hộ dân không thể cấp nước tập trung
Ông Trần Bá Hoằng (ảnh), Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, cho biết, Viện đã xây dựng đề án phòng, chống sạt lở, sụt lún và xâm nhập mặn ở ĐBSCL. Trong quá trình thực hiện, vấn đề nước sạch nông thôn được xác định là rất quan trọng, bởi thực tế mỗi năm vùng này đều đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt do xâm nhập mặn.

Hiện nay các công trình thủy lợi đã kiểm soát xâm nhập mặn trong khoảng 40 km từ cửa biển, đồng thời Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai các giải pháp kịp thời trong những năm xâm nhập mặn lên đến 60-70 km.
Trong đó, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam được giao nhiệm vụ dự báo hạn hán và xâm nhập mặn, nhằm cung cấp thông tin phục vụ chỉ đạo sản xuất và xây dựng kế hoạch ứng phó. Vì vậy, thiệt hại do xâm nhập mặn đã giảm đáng kể, từ 200.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt giai đoạn 2015-2016, xuống còn khoảng 76.000 hộ trong giai đoạn 2023-2024.

Người dân Vĩnh Long tưới cây ăn trái bằng nguồn nước dự trữ trong mùa khô. Ảnh: Ngọc Trinh/Báo Người lao động.
“Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai thêm các dự án cấp nước sạch nông thôn tại 4 tỉnh ĐBSCL. Tuy nhiên, việc đầu tư ở những khu vực còn lại đang gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn nước ngọt, chi phí cao và giá thành đầu tư lớn, đặc biệt với doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó, với đặc thù dân cư phân tán, hiện có khoảng 53.500 hộ không thể cấp nước tập trung, vì vậy cần xem xét các giải pháp như dự trữ nước tại hộ gia đình hoặc các phương án thay thế khác.
Tôi đề nghị Bộ tiếp tục quan tâm và tăng cường các chính sách, giải pháp hỗ trợ để mở rộng hệ thống cấp nước sạch nông thôn, đảm bảo đến năm 2030 khoảng 80% hộ gia đình nông thôn được tiếp cận nguồn nước an toàn”, ông Hoằng phát biểu.
10h45
Có thể xây dựng biểu giá nước như biểu giá điện
Ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, cho biết, qua kết quả khảo sát và đánh giá thực tế tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), có thể thấy công tác cấp nước sạch nông thôn hiện còn nhiều bất cập, đặc biệt là ở khâu quy hoạch, quản lý khai thác và giám sát nguồn nước.

Theo ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, đã đến lúc cần nhìn nhận nước là một yếu tố của nền kinh tế, chứ không chỉ là dịch vụ công ích.
Theo ông Mạnh, việc quản lý quy hoạch cấp nước ở nhiều địa phương vẫn chưa đồng bộ; một số khu vực đô thị hóa nhanh khiến hệ thống cấp nước không theo kịp nhu cầu. Công tác giám sát chất lượng nước, theo dõi khai thác chưa được triển khai đầy đủ, nhiều địa phương chưa xây dựng phương án tổng thể cho cấp phép khai thác, dẫn đến khó khăn trong điều hành, nhất là trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn diễn biến phức tạp.
Thực tế cho thấy, tại một số vùng như Cà Mau, người dân vẫn phải sử dụng nước mưa hoặc nước trữ tạm thời. Một số tỉnh như Bến Tre, Cà Mau, Hậu Giang đã đầu tư xây dựng hồ chứa phân tán, song quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
Ông Mạnh cho biết, trong giai đoạn 2015-2016, hạn hán và xâm nhập mặn đã khiến hơn 200.000 hộ dân ĐBSCL thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nhờ chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó, chuẩn bị từ sớm, đến các đợt hạn mặn 2019-2020 và 2023-2024, số hộ thiếu nước đã giảm còn vài chục nghìn. Điều đó cho thấy hiệu quả rõ rệt khi các địa phương chú trọng công tác quy hoạch và phòng ngừa từ xa.
Liên quan đến đầu tư và xã hội hóa trong lĩnh vực nước sạch nông thôn, ông Mạnh cho rằng đây là lĩnh vực khó thu hút doanh nghiệp bởi giá nước hiện còn thấp, trong khi chi phí đầu tư hạ tầng lớn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Cùng với đó, ý thức tiết kiệm nước của người dân còn hạn chế, dẫn đến lãng phí trong sử dụng.

Trải bạt trữ nước tưới vườn bưởi tại Tiền Giang (cũ).
Theo ông, đã đến lúc cần nhìn nhận nước là một yếu tố của nền kinh tế, chứ không chỉ là dịch vụ công ích. Việc phát triển kinh tế nước phải gắn với tư duy quản lý hiện đại, chuyển từ hành chính thụ động sang quản lý theo cơ chế thị trường. Điều này đòi hỏi hoàn thiện thể chế, chính sách và tính đúng, tính đủ giá nước, tương tự như biểu giá điện. Khi giá nước được phản ánh sát giá trị thật, mới có thể thu hút đầu tư tư nhân và khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, cần có công cụ kinh tế và chế tài môi trường, như thu phí xả thải hoặc thuế tài nguyên nước, để khuyến khích tiết kiệm và giảm ô nhiễm. Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản lý, giám sát khai thác, và nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của nước - yếu tố sống còn trong thích ứng biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL.
10h30
Ưu tiên đầu tư nước sinh hoạt để bảo đảm an sinh
Theo ông Đặng Thanh Lâm (ảnh), Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, trong quá trình quy hoạch phòng chống thiên tai (PCTT) ở khu vực phía Nam, đặc biệt là trên lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long cho thấy việc cấp nước sinh hoạt vẫn gặp nhiều khó khăn.
Hai lưu vực sông lớn này hiện phục vụ cho hơn 20 triệu dân, trong khi đặc điểm địa hình và phân bố nguồn nước không đồng đều, khiến nhiều khu vực không thể tiếp cận nguồn nước đầu nguồn - đây là thách thức lớn trong công tác quy hoạch và quản lý tài nguyên nước.

Theo ông Lâm, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam được giao nhiệm vụ xây dựng quy hoạch cấp quốc gia về PCTT, xem xét nhu cầu sử dụng nước cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt, trong đó nước sinh hoạt chiếm khoảng 10-15% tổng nhu cầu nhưng lại là nguồn nước có vai trò quan trọng và được ưu tiên hàng đầu, đầu tư chất lượng.
Ông nhấn mạnh, quy hoạch cấp nước không thực hiện đơn lẻ cho từng mục đích, mà phải kết hợp tổng hợp. Theo tiêu chuẩn quy hoạch hiện nay, các công trình được thiết kế đảm bảo 85% nhu cầu cấp nước, tuy nhiên vẫn có thể xảy ra thiếu nước trong những năm khô hạn cực đoan. Vì vậy, cần ưu tiên đầu tư hiệu quả, đồng thời lồng ghép ưu tiên vào các giải pháp quốc gia phòng chống thiên tai, hạn hán và xâm nhập mặn trong quy hoạch và đầu tư thủy lợi.
10h15
Tầm quan trọng của việc xây dựng một 'nền kinh tế nước'
Phát biểu tại diễn đàn, ông Trần Quang Hùng, Tổng Giám đốc Công ty Khai thác Thủy lợi miền Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một “nền kinh tế nước” như một định hướng phát triển dài hạn và bền vững, đặc biệt trong bối cảnh tài nguyên nước đang chịu sức ép từ biến đổi khí hậu, đô thị hóa và chuyển dịch sản xuất.

Ông Trần Quang Hùng, Tổng Giám đốc Công ty Khai thác Thủy lợi miền Nam, kêu gọi chuyển hướng tư duy sử dụng nước.
Theo ông, nước không chỉ là tài nguyên thiết yếu mà cần được quản lý như một yếu tố có giá trị kinh tế, với quy hoạch, đầu tư, sử dụng và bảo vệ theo hướng hiệu quả, tiết kiệm.
Từ kinh nghiệm thực tế tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ông Hùng cho biết đơn vị đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý chất lượng nước, vận hành hệ thống cấp nước và giám sát hồ chứa. Hơn 20 điểm quan trắc tự động đã được triển khai, giúp kiểm soát liên tục chất lượng nguồn nước.
Đồng thời, công ty đã đưa công nghệ thông minh vào vận hành công trình, tích hợp cơ sở dữ liệu để tăng hiệu quả giám sát và ra quyết định.
Về quy hoạch, ông Hùng nhấn mạnh cần bảo vệ hồ chứa bằng cách quy hoạch “vành đai sinh thái”, trồng rừng, phát triển du lịch sinh thái và hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm quanh hồ. Đây không chỉ là biện pháp bảo vệ nguồn nước, mà còn tạo ra sinh kế bền vững cho người dân quanh vùng.
Trước nguy cơ hạn hán, ông đề xuất xây dựng hệ thống hồ chứa ở vùng cao, tích nước mùa mưa để điều phối về vùng thấp theo trọng lực, tiết kiệm năng lượng, tăng chủ động cấp nước. Đồng thời, ông kêu gọi chuyển hướng tư duy sử dụng nước: Từ cấp nước đơn ngành sang đa ngành, trong đó ưu tiên sử dụng nước cho sinh hoạt, công nghiệp và đô thị có giá trị kinh tế cao hơn, đồng thời ứng dụng công nghệ để tiết kiệm, tái sử dụng nước trong nông nghiệp.
Cuối cùng, ông nhấn mạnh yếu tố “ổn định và chất lượng nguồn nước” là điều kiện tiên quyết để thu hút đầu tư dân cư và công nghiệp. Các vùng có nguồn nước tốt cần được quy hoạch ưu tiên, đi kèm với cơ chế chính sách ưu đãi để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào khu vực nông thôn và vùng ven đô.
10h00
Bài toán nguồn lực và cơ chế đầu tư cho nước sạch nông thôn
Theo ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng Công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), để đạt được mục tiêu về nước sạch nông thôn theo Chiến lược quốc gia đến năm 2030, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về thể chế, nguồn lực và phương thức đầu tư.

Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng Công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Trước hết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thiện dự thảo nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn, trong đó quy định rõ từ khâu đầu tư, quản lý vận hành đến cơ chế huy động vốn xã hội hóa. Nghị định này kỳ vọng sẽ khắc phục những bất cập hiện nay, tạo hành lang pháp lý thông suốt để thu hút doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ nước sạch.
Bên cạnh đó, ông nhấn mạnh, Nhà nước cần dành nguồn lực ưu tiên cho các vùng khó khăn, miền núi, biên giới và hải đảo - những nơi doanh nghiệp khó đầu tư do chi phí cao, hiệu quả thấp. Cùng với đó là việc huy động người dân tham gia đóng góp kinh phí, ngày công hoặc đất đai để hình thành công trình, đặc biệt ở các vùng có điều kiện thuận lợi cho xã hội hóa.
Một yếu tố then chốt khác là truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của nước sạch và vệ sinh môi trường. “Người dân phải hiểu rằng nước sạch không chỉ là vấn đề sức khỏe mà còn là tiêu chí của nông thôn văn minh, là điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống”, ông nói. Sự đồng hành giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân chính là nền tảng bảo đảm tính bền vững cho các chương trình nước sạch nông thôn trong giai đoạn mới.
9h50
Miền Bắc có lợi thế xã hội hóa cấp nước - vì sao?
Phân tích sự chênh lệch giữa các vùng miền trong xã hội hóa cấp nước nông thôn, ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng Công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), lý giải: miền Bắc có nền tảng công trình cấp nước tốt hơn do quá trình đầu tư sớm, quy mô tập trung và có hệ thống xử lý đầy đủ từ nhiều năm trước. Hệ thống cấp nước liên xã, có quy trình quản lý tương đối chặt chẽ và ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia vận hành, khai thác.

Ông Lương Văn Anh cho rằng miền Bắc có lợi thế xã hội hóa cấp nước.
Ngược lại, nhiều tỉnh miền Trung và Tây Nguyên gặp khó khăn hơn do đặc điểm địa hình rải rác, dân cư thưa thớt, dẫn đến việc đầu tư bị chia nhỏ, thiếu đồng bộ, không hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân. “Những vị trí thuận lợi, gần nguồn nước, dân cư đông đúc thì Nhà nước đã đầu tư xong hết rồi. Những vùng khó, địa hình hiểm trở, nhu cầu phân tán thì doanh nghiệp không mấy mặn mà”, ông nhận định.

Miền Bắc có nền tảng công trình cấp nước tốt hơn do quá trình đầu tư sớm, quy mô tập trung và có hệ thống xử lý đầy đủ từ nhiều năm trước. Ảnh minh họa: TTXVN.
Ngoài ra, ông cũng cho rằng miền Bắc có lợi thế về mặt nhận thức cộng đồng. Người dân ở nhiều địa phương phía Bắc đã quen sử dụng nước sạch, hiểu rõ lợi ích của việc sử dụng nước đạt chuẩn, từ đó sẵn sàng đóng góp chi phí hoặc hợp tác với đơn vị cung cấp dịch vụ. Đây là yếu tố quan trọng, góp phần làm nên thành công của các mô hình xã hội hóa cấp nước tại khu vực này.
9h40
Cần thống kê rõ lại các công trình cấp nước
Theo ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, việc thống kê chính xác và thống nhất khái niệm về công trình cấp nước là rất cần thiết để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động của hệ thống cấp nước nông thôn.
Cả nước hiện có khoảng 18.000 công trình cấp nước nông thôn, song trong đó có tới một phần ba (hơn 6.000 công trình) là những mô hình quy mô nhỏ, chủ yếu ở vùng núi như Gia Lai, Kon Tum (cũ), chỉ phục vụ khoảng 10 hộ, thường được hình thành bằng cách đắp suối, dẫn nước qua đường ống chung, nên thực chất chưa đáp ứng tiêu chuẩn của hệ thống cấp nước tập trung và chất lượng nước chưa được đảm bảo.

Có tới hơn 6.000 công trình cấp nước sạch nông thôn là những mô hình quy mô nhỏ, chủ yếu ở vùng núi. Ảnh minh họa.
Ông Lương Văn Anh cho biết thêm, nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt nông thôn vẫn tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, hiện mới chỉ 58% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn quốc gia, trong đó khoảng 47% hộ dân được tiếp cận từ các công trình cấp nước tập trung - đây mới là nguồn cấp nước được đánh giá là bền vững.
Về chuyển đổi số, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai ứng dụng công nghệ số trong toàn bộ quá trình quản lý, vận hành các công trình cấp nước tại địa phương.
Theo đó, hệ thống dữ liệu được cập nhật đồng bộ, liên tục từ các nhà máy, trạm cấp nước đến đơn vị quản lý cơ sở, giúp giám sát hiệu quả hoạt động, đặc biệt trong những thời điểm khẩn cấp như thiên tai, hạn hán hay xâm nhập mặn.
“Thực tế, việc cấp phép khoan, khai thác nước vẫn mất nhiều thời gian dù dự án đã được phê duyệt và cho phép thi công. Do đó, cần xem xét gộp các bước cấp phép, thẩm định và phê duyệt kỹ thuật thành một quy trình thống nhất, nhằm thúc đẩy tiến độ thực hiện công trình và bảo đảm cấp nước an toàn, bền vững cho người dân”, ông Lương Văn Anh cho biết.
Hiện Bộ đang tiến hành rà soát và sửa đổi quy trình này nhằm phù hợp với thực tiễn triển khai. Các địa phương, đơn vị quản lý và doanh nghiệp cần tham gia đóng góp ý kiến, phản ánh ngay những vướng mắc phát sinh từ thực tế để Bộ hoàn thiện quy định, bảo đảm việc cấp phép vừa tuân thủ quy định pháp luật, vừa đáp ứng yêu cầu cấp nước an toàn, kịp thời cho người dân.
9h30
Kiến nghị ban hành cơ chế đặc thù cho cấp nước nông thôn
Sau sáp nhập, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang đảm nhiệm quản lý nhà nước về nước sạch nông thôn toàn tỉnh. Hiện có 238 công trình cấp nước tập trung (CNTT) cho khoảng 665.160 hộ dân, vận hành theo ba mô hình: Trung tâm Nước sạch, doanh nghiệp và hợp tác xã.
Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT), đơn vị sự nghiệp công trực thuộc Sở, quản lý 96 công trình, phục vụ hơn 155.000 hộ dân. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn toàn tỉnh hiện đạt 80,96%, trong đó từ các công trình CNTT đạt 70,15%.

Hiện tại, An Giang có 238 công trình cấp nước tập trung (CNTT) cho khoảng 665.160 hộ dân, vận hành theo ba mô hình. Ảnh minh họa.
Theo ông Đặng Duy Quang, Đại diện Trung tâm NS&VSMTNT An Giang, do tổ chức bộ máy địa phương chưa ổn định, thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị trong giải phóng mặt bằng, nhiều công trình thi công còn chậm tiến độ. Thủ tục cấp phép khoan, khai thác nước ngầm phục vụ sinh hoạt phức tạp, gây khó khăn cho việc đáp ứng nhu cầu nước sạch cấp bách của người dân. Việc sáp nhập địa giới hành chính cũng khiến công tác quản lý thiếu thống nhất; cấp xã lại thiếu cán bộ chuyên trách về nước sạch và môi trường, đa số kiêm nhiệm nên hiệu quả chưa cao. Nhiều công trình tại khu vực An Giang cũ đã xuống cấp, hết công suất nhưng chưa được đầu tư nâng cấp, trong khi một số địa phương chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực này, làm tỷ lệ cấp nước sạch không bền vững.
“Một trong những khó khăn lớn là Quyết định số 1348 của UBND tỉnh An Giang (ban hành ngày 3/10/2025) chưa bổ sung thủ tục hành chính liên quan đến nước sạch nông thôn, dù trước đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công bố danh mục đủ điều kiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến”, ông Quang thông tin.
Ông Đặng Duy Quang cho biết thêm, đơn vị đang tập trung củng cố tổ chức và nhân sự để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Sở Nông nghiệp và Môi trường, trình UBND tỉnh xây dựng các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện mục tiêu Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Trung tâm đang tiến hành rà soát, cập nhật nhu cầu cấp nước sạch nông thôn vào quy hoạch phát triển bảo đảm nguồn nước an toàn, bền vững trước biến đổi khí hậu. Đồng thời, ứng dụng công nghệ, thiết bị thông minh trong quản lý, vận hành hệ thống cấp nước, nhằm nâng cao hiệu quả và đảm bảo chất lượng nguồn nước phục vụ người dân trong tỉnh.
9h20
Vĩnh Long hướng tới hệ sinh thái quản lý cấp nước thông minh
Đóng góp tham luận về ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung, ông Châu Văn Tùng (ảnh), Phó Giám đốc Trung tâm Nước sạch nông thôn tỉnh Vĩnh Long, chia sẻ, đây không chỉ là áp dụng công nghệ, mà còn là hành trình đổi mới tư duy, tối ưu vận hành và nâng cao chất lượng dịch vụ, hướng tới mục tiêu cung cấp nguồn nước an toàn, bền vững cho người dân.

Trung tâm Nước sạch nông thôn tỉnh Vĩnh Long được thành lập trên cơ sở hợp nhất các trung tâm nước sạch của 3 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh và Bến Tre. Hiện đơn vị đang quản lý, vận hành 237 công trình cấp nước tập trung, với tổng công suất 237.400 m³/ngày đêm, cung cấp nước sạch cho khoảng 482.000 khách hàng. Tổng số nhân sự của trung tâm là 762 người, trong đó 134 người làm công tác gián tiếp và 628 người trực tiếp tại các trạm cấp nước.
Trung tâm đã sớm triển khai các giải pháp chuyển đổi số, coi đây là bước đi chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và chất lượng dịch vụ. Tại một số trạm có công suất lớn, đơn vị đã đầu tư hệ thống giám sát, quan trắc chất lượng nước và điều khiển tự động hệ thống bơm điện; áp dụng các công nghệ IoT để giám sát áp lực nước theo thời gian thực, đo độ đục (NTU) nhằm kiểm soát chất lượng nước và giảm ô nhiễm. Cùng với đó là việc ứng dụng phần mềm quản lý khách hàng, giúp đơn giản hóa quy trình tiếp nhận và xử lý thông tin.
Định hướng trong giai đoạn tới, Trung tâm đặt mục tiêu xây dựng hệ sinh thái “Quản lý cấp nước thông minh” với mô hình tích hợp các nền tảng số, dữ liệu và công nghệ vận hành hiện đại.
Tuy nhiên, chặng đường phía trước còn nhiều thách thức về nguồn vốn đầu tư, nhân lực kỹ thuật số và an ninh mạng.
Hoạt động cấp nước chủ yếu diễn ra tại khu vực nông thôn nên nhận thức và mức độ tiếp cận công nghệ của khách hàng vẫn còn hạn chế. Để khắc phục, Trung tâm thường xuyên phối hợp với chính quyền địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người dân sử dụng các tiện ích số, từ đó từng bước nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong lĩnh vực nước sạch.
Song song, đơn vị chủ động học hỏi kinh nghiệm chuyển đổi số từ các địa phương khác, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp hạ tầng số để ứng dụng những công nghệ mới, giúp tối ưu hóa vận hành, tiết kiệm năng lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ.
9h10
Cần hơn 29.000 tỷ đồng đầu tư cho nước sạch nông thôn giai đoạn 2021-2025
Ông Giáp Mai Thùy, Phó Trưởng phòng Quản lý Nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết: “Công tác cấp nước sạch nông thôn trong giai đoạn vừa qua đã góp phần quan trọng giúp đạt được các chỉ tiêu về nước sạch trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới (2021-2025)”.

Ông Giáp Mai Thùy, Phó Trưởng phòng Quản lý Nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trình bày tham luận về công tác cấp nước sạch nông thôn.
Đến nay, toàn quốc có khoảng 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn, trong đó 60% hộ dân sử dụng nước từ các công trình cấp nước tập trung, còn 8% hộ dân được cấp nước từ hệ thống cấp nước hộ gia đình.
Theo ông Thùy, công tác chuyển đổi số trong quản lý cấp nước sạch nông thôn được triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Các đơn vị đã nghiên cứu và ứng dụng nhiều giải pháp như giám sát chất lượng nước trực tuyến, công nghệ bể lọc tiếp xúc sinh học để xử lý nguồn nước nhiễm hữu cơ và amoni, vật liệu lọc đa tầng, kết hợp năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng trong cấp nước hộ gia đình.

Nguồn lực đầu tư cho nước sạch nông thôn vẫn còn hạn chế. Ảnh minh họa.
Tuy nhiên, ông Giáp Mai Thùy cho biết, nguồn lực đầu tư vẫn còn hạn chế. Trong giai đoạn 2020-2024, tổng vốn đầu tư cho cấp nước sạch nông thôn đạt khoảng 13,4 nghìn tỷ đồng, trong khi nhu cầu giai đoạn 2021-2025 ước tính cần tới 29,2 nghìn tỷ đồng, tức thiếu gần 16 nghìn tỷ đồng.
Để nâng cao hiệu quả, ông kiến nghị cần hoàn thiện cơ chế, chính sách và đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung quy mô lớn, đồng bộ, hiện đại, ưu tiên cho các khu vực khan hiếm nước, vùng hạn hán, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.
Tại cấp địa phương, cần hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý cấp nước nông thôn theo mô hình chính quyền hai cấp, đồng thời rà soát, điều chỉnh giá nước phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, hướng dẫn người dân áp dụng các giải pháp thu, trữ nước an toàn tại hộ gia đình.
9h00
Nước sạch - chìa khóa cho sức khỏe cộng đồng và nông nghiệp xanh
Phát biểu khai mạc tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường Vũ Minh Việt nhấn mạnh: nước sạch và vệ sinh không chỉ là nhu cầu thiết yếu mà còn là nền tảng cho sức khỏe cộng đồng, chất lượng sống nông thôn và môi trường an toàn cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế nông nghiệp xanh - sạch - tuần hoàn, thích ứng biến đổi khí hậu.

Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường Vũ Minh Việt phát biểu khai mạc diễn đàn.
Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường dẫn Quyết định số 1978/QĐ-TTg ngày 24/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chuẩn kỹ thuật (trong đó ít nhất 65% từ hệ thống cấp nước tập trung); tối thiểu 90% hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh; 100% trường học và trạm y tế ở nông thôn có công trình nước sạch, nhà vệ sinh đạt chuẩn; đồng thời phát triển hệ thống cấp nước nông thôn bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu bền vững về tài chính và vận hành hiệu quả.
Theo nhà báo Vũ Minh Việt, để hiện thực hóa các mục tiêu trên, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, ngành, trong đó đặc biệt là vai trò chủ động của chính quyền địa phương, doanh nghiệp, người dân và báo chí - truyền thông.

Nước sạch và vệ sinh không chỉ là nhu cầu thiết yếu mà còn là nền tảng cho sức khỏe cộng đồng. Ảnh minh họa.
Diễn đàn tập trung thảo luận 5 nội dung trọng tâm: Đầu tư hạ tầng cấp nước hiện đại, đồng bộ gắn với chuyển đổi số; Cơ chế khuyến khích xã hội hóa, thu hút khu vực tư nhân; Nâng cao nhận thức cộng đồng, thay đổi hành vi và vệ sinh môi trường nông thôn, sử dụng nước và bảo vệ nguồn nước tiết kiệm và hiệu quả; Gắn kết chương trình nước sạch với nông nghiệp công nghệ cao, tuần hoàn, giảm phát thải; Khẳng định vai trò trung tâm của nước sạch và vệ sinh môi trường trong phát triển bền vững và xây dựng nông thôn văn minh.