Bảo vệ lợi thế cạnh tranh bằng mã số vùng
Vụ vải năm 2025, thị xã Chũ tiếp tục duy trì 49 mã số vùng trồng (MSVT) vải thiều phục vụ xuất khẩu là một trong những nền tảng quan trọng nhất giúp sản phẩm vải thiều địa phương giữ vững vị thế tại các thị trường quốc tế khắt khe. Đây là kết quả của nhiều năm đầu tư bài bản vào hạ tầng sản xuất, kiểm soát chất lượng và áp dụng quy trình tiêu chuẩn hóa trong canh tác.

Vùng trồng vải thiều theo tiêu chuẩn xuất khẩu tại tổ dân phố Cầu Đền, phường Thanh Hải, thị xã Chũ, tỉnh Bắc Giang. Ảnh: Phạm Minh.
Theo báo cáo từ UBND thị xã Chũ, trong 49 mã vùng đang hoạt động, có 14 mã xuất sang Trung Quốc với tổng diện tích 6.015,56 ha, chiếm tỷ lệ áp đảo. Ngoài ra, thị xã còn có 16 mã vùng trồng phục vụ xuất khẩu Nhật Bản (139,98 ha), 13 mã xuất sang Úc (159,7 ha) và 6 mã phục vụ Thái Lan (68,01 ha). Các mã vùng đều được cập nhật, quản lý chặt chẽ, số hóa, đảm bảo truy xuất được nguồn gốc theo yêu cầu của nước nhập khẩu.
Sở hữu mã số vùng trồng là điều kiện bắt buộc để vải thiều có thể đi qua cửa khẩu chính ngạch. Không chỉ vậy, mã số còn là “chứng chỉ chất lượng” cho cả chuỗi sản xuất – thu hoạch – đóng gói. Mỗi lô hàng có mã tương ứng đều được ghi nhật ký sản xuất, áp dụng quy trình chăm sóc nghiêm ngặt, kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và bảo đảm an toàn sinh học.
Cùng với mã vùng trồng, thị xã Chũ hiện có 20 cơ sở đóng gói đạt chuẩn phục vụ xuất khẩu. Trong đó, 19 cơ sở được cấp phép xuất sang thị trường Trung Quốc và 1 cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn Nhật Bản. Tất cả đều có mã cơ sở đóng gói riêng, được kiểm tra định kỳ và có công suất xử lý trung bình 50–70 tấn/ngày.
Cán bộ Phòng Kinh tế thị xã Chũ cho biết: “Mỗi năm, chúng tôi đều phối hợp với Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bắc Giang để rà soát, kiểm tra, cập nhật tình trạng hoạt động của từng mã vùng trồng. Nếu hộ dân hoặc HTX nào vi phạm quy trình sản xuất, không tuân thủ yêu cầu ghi chép nhật ký, để phát sinh dư lượng thuốc vượt ngưỡng, sẽ bị tạm dừng hoặc thu hồi mã.”
Siết quản lý, mở rộng thị trường
Việc duy trì hệ thống mã vùng trồng và cơ sở đóng gói không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà còn là chiến lược bảo vệ “giấy thông hành” cho vải thiều trên địa bàn thị xã Chũ tại các thị trường quốc tế lớn. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt với các vùng trồng khác trong nước và khu vực, việc tuân thủ quy trình sản xuất nghiêm ngặt đang là lợi thế then chốt giúp vải thiều ở Chũ giữ được đơn hàng từ các đối tác truyền thống và mở rộng sang thị trường mới.

Các vùng trồng đều được ghi nhật ký sản xuất, áp dụng quy trình chăm sóc nghiêm ngặt, kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và bảo đảm an toàn sinh học. Ảnh: Đinh Mười.
Từ đầu năm đến nay, thị xã Chũ đã triển khai kiểm tra, giám sát chặt chẽ các mã vùng trồng, yêu cầu các xã, phường cử cán bộ bám sát tại các vùng có sản lượng xuất khẩu lớn. Công tác này được thực hiện liên tục từ tháng 3 đến tháng 6, gắn với lịch sinh trưởng và thời điểm thu hoạch từng giống vải. Trong quá trình kiểm tra, đoàn công tác phối hợp hướng dẫn nông dân về cách sử dụng thuốc đúng danh mục cho phép, thời gian cách ly an toàn, đồng thời gắn nhãn QR truy xuất sản phẩm.
Năm 2025, thị xã cũng tập trung thúc đẩy số hóa toàn bộ bản đồ vùng trồng, cập nhật dữ liệu trên phần mềm quản lý để phục vụ công tác truy xuất nguồn gốc và chứng nhận điện tử. Đây là bước đi quan trọng để giảm thời gian xử lý hồ sơ xuất khẩu, đồng thời tạo thuận lợi khi làm việc với thương nhân, doanh nghiệp, đơn vị hậu cần vận chuyển.
Từ tháng 4, nhiều tổ hợp tác, hợp tác xã ở các xã Quý Sơn, Kiên Lao, Phượng Sơn… đã được hướng dẫn cài đặt ứng dụng ghi nhật ký điện tử và cập nhật dữ liệu canh tác hàng ngày. Việc áp dụng công nghệ số không chỉ giúp minh bạch thông tin sản xuất mà còn là căn cứ để các doanh nghiệp đánh giá độ tin cậy, ưu tiên ký hợp đồng tiêu thụ với những vùng có dữ liệu rõ ràng, minh chứng được quy trình sản xuất sạch.
Ngoài các thị trường truyền thống, trong năm nay, thị xã Chũ đặt mục tiêu mở rộng thêm mã vùng trồng phục vụ xuất khẩu đi Hàn Quốc, EU và Mỹ là những nơi có yêu cầu rất cao về an toàn thực phẩm. Việc này đòi hỏi nâng cấp thêm cơ sở đóng gói và tập huấn sâu về kỹ thuật chăm sóc. Tuy nhiên, lãnh đạo thị xã khẳng định đây là hướng đi lâu dài và cần thiết để tăng giá trị trái vải.
Trao đổi với phóng viên, Ông Phạm Công Toản, Chủ tịch UBND thị xã Chũ chia sẻ: “Mỗi mã số vùng trồng là tài sản chung của người dân và chính quyền. Muốn giữ được thị trường thì không thể lơ là quản lý. Chúng tôi đã phân công cụ thể cán bộ giám sát theo địa bàn, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân thông qua các lớp tập huấn và kiểm tra thực tế. Giữ vững hệ thống mã số vùng trồng là giữ uy tín thương hiệu vải thiều trồng trên đất Chũ. Tới đây, chúng tôi tiếp tục kiến nghị mở rộng thêm diện tích mã vùng cho các thị trường khó tính và tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng đóng gói, bảo quản".