Giữa làn sóng biến đổi khí hậu, rừng không chỉ là “lá phổi xanh” của hành tinh hay tấm khiên bảo vệ đa dạng sinh học, mà còn ẩn chứa những giá trị kinh tế khổng lồ nếu được trao vào đúng tay.
Khi các mô hình khai thác công nghiệp truyền thống ngày càng bộc lộ nhiều bất cập về môi trường, lâm nghiệp cộng đồng, tức là giao quyền thực sự cho người dân sống gần rừng, đã và đang mở ra một hướng đi bền vững, vừa bảo vệ rừng, vừa tạo sinh kế, thậm chí làm giàu từ rừng.
Từ giữ rừng truyền thống đến kinh tế rừng hiện đại
Thực tế cho thấy, ở nhiều nơi trên thế giới, những cộng đồng từng chỉ quanh quẩn với nghề làm nương, phát củi, sống nhờ rừng nay đã trở thành những “doanh nhân rừng” đích thực.
Theo World Resources Institute (2021), tại Mexico, hơn 2.000 cộng đồng sở hữu rừng (gọi là ejidos) không chỉ giữ rừng mà còn trực tiếp vận hành xưởng gỗ, nhà máy, khu du lịch sinh thái. Đặc biệt, cộng đồng Ixtlán de Juárez (bang Oaxaca) mỗi năm thu về 4-5 triệu USD, tạo việc làm cho hơn 300 người dân, với tỷ lệ mất rừng gần như bằng 0%. Mô hình này được xem là hình mẫu lâm nghiệp cộng đồng thành công bậc nhất thế giới.
Không chỉ riêng Mexico, tại Nepal, hơn 22.000 nhóm cộng đồng (CFUGs) hiện đang quản lý 2,2 triệu ha rừng, gần 1/4 tổng diện tích rừng cả nước. Theo Bộ Lâm nghiệp Nepal, độ che phủ rừng đã tăng mạnh từ 26% năm 1992 lên trên 45% năm 2021, đồng thời mang lại nguồn thu ổn định từ củi, tre, mật ong và du lịch sinh thái gắn với rừng, góp phần cải thiện rõ rệt đời sống người dân.

Việt Nam có lợi thế về rừng rất lớn, do đó cần nhân rộng mô hình này để vừa bảo vệ tài nguyên, vừa tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng cao. Ảnh minh họa.
Ở Indonesia, mô hình “rừng làng” (Hutan Desa) được triển khai rộng rãi tại nhiều tỉnh. Các nhóm hộ dân tại đây được cấp quyền sử dụng rừng 35 năm, khai thác hợp pháp lâm sản phụ, tổ chức du lịch sinh thái, tiếp cận quỹ khí hậu, nhờ đó nhiều làng đã đạt doanh thu hàng trăm nghìn USD mỗi năm, vừa giữ vững độ che phủ rừng, vừa nâng cao thu nhập và chất lượng sống.
Việt Nam: Tự chủ sinh kế từ chính tài nguyên rừng
Tại Việt Nam, hiệu quả của lâm nghiệp cộng đồng ngày càng được ghi nhận rõ nét. Theo Tổng cục Lâm nghiệp (2023), cả nước có gần 4 triệu ha rừng do các nhóm hộ dân hoặc cộng đồng quản lý; độ che phủ rừng vượt mốc 42%, hàng chục nghìn hộ đồng bào dân tộc thiểu số sống nhờ và sống cùng rừng.
Nhiều địa phương đã và đang tận dụng mô hình này để vừa phát triển kinh tế, vừa giữ rừng. Ở Quảng Trị, các nhóm cộng đồng chủ động bảo vệ rừng, trồng keo FSC, sản xuất đồ thủ công từ tre, mây xuất khẩu.
Tại A Lưới (TP. Huế), đồng bào Cơ Tu không chỉ tuần tra rừng mà còn khai thác các giá trị mới qua du lịch sinh thái, trồng cây bản địa lấy gỗ quý, dược liệu. Vùng Tây Bắc, nhiều xã phối hợp khai thác chọn lọc gỗ theo hướng dẫn kỹ thuật, đồng thời phát triển sinh kế dưới tán rừng như trồng sa nhân, mộc nhĩ, nuôi ong lấy mật.

Thu hoạch mật ong hoang dã dưới tán rừng. Ảnh: CIFOR-ICRAF.
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (PES), cấp chứng chỉ rừng FSC cùng các chương trình hỗ trợ sinh kế vùng rừng đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình này. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), năm 2023 tổng số tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng lên tới hơn 3.000 tỷ đồng, giúp nâng cao thu nhập cho hàng trăm nghìn hộ ở vùng cao.
Cơ hội mới từ thị trường carbon và phát triển bền vững
Đằng sau các kết quả kinh tế, những mô hình này còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Khi người dân thực sự làm chủ rừng, động lực bảo vệ rừng lớn hơn bao giờ hết; việc làm tại địa phương ổn định hơn, tỷ lệ phá rừng trái phép giảm mạnh, văn hóa bản địa cũng được giữ gìn và phát huy.
Không dừng lại ở đó, trong xu hướng toàn cầu hướng tới trung hòa carbon, các khu rừng hấp thu CO2 ngày càng được coi là “tài sản kinh tế” quý giá. Theo phân tích của Ngân hàng Thế giới, nhiều tập đoàn lớn như Nestlé, Microsoft đã mua tín chỉ carbon từ rừng cộng đồng tại châu Phi và Mỹ Latin để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0.

Rừng cộng đồng không chỉ tạo thu nhập bền vững mà còn giữ gìn văn hóa, giảm phá rừng và mở ra cơ hội tài chính từ tín chỉ cacbon. Ảnh: Juan Pablo Pino.
Tại Việt Nam, hành lang pháp lý sơ bộ cho thị trường carbon tự nguyện đã bước đầu hình thành, tạo điều kiện cho các cộng đồng quản lý rừng có chứng chỉ, giám sát hấp thụ carbon tiếp cận nguồn tài chính mới, chủ động khai thác giá trị kinh tế từ chính tài nguyên mình gìn giữ.
Có thể nói, đây là cơ hội vàng để lâm nghiệp cộng đồng không chỉ còn là giải pháp xã hội, mà thực sự trở thành mô hình làm giàu bền vững dựa trên tài sản tự nhiên. Như khẳng định từ Hội nghị Rừng Thế giới, Seoul 2022: “Khi người dân thực sự làm chủ rừng, họ không chỉ giữ rừng tốt hơn, họ còn giúp rừng trở thành nền tảng của sự thịnh vượng”.
Nếu tiếp tục được phát triển bài bản, lâm nghiệp cộng đồng sẽ vừa giúp bảo vệ tài nguyên rừng, vừa xây dựng sinh kế ổn định, mở lối phát triển xanh và bền vững cho hàng triệu người dân vùng cao Việt Nam.