Ô nhiễm không khí là "căn bệnh trầm kha" của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chia sẻ về các giải pháp mà Việt Nam thực hiện, nhằm cải thiện chất lượng môi trường không khí.
Sẽ vận hành Hệ thống cảnh báo, dự báo ô nhiễm không khí
Thưa ông, hiện nay ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM đang ở mức đáng báo động. Cục Môi trường đã và đang triển khai những giải pháp chính sách cụ thể nào để cải thiện chất lượng không khí trong ngắn hạn và dài hạn?
Trước tình hình ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn của Việt nam, trong thời gian vừa qua, Cục Môi trường luôn chủ động triển khai những giải pháp chính sách cụ thể để cải thiện chất lượng không khí, với những giải pháp cấp bách trước mắt và dài hạn.

Phó Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Lê Hoài Nam. Ảnh: Khương Trung.
Cụ thể, đối với các giải pháp cấp bách (ngắn hạn): Trước tình trạng ô nhiễm không khí diễn ra có tính chu kỳ về mặt thời gian, Cục Môi trường đã rất chủ động đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn và đề nghị các địa phương tăng cường các biện pháp kiểm soát các nguồn thải khí thải, các điểm nóng về ô nhiễm không khí trong thời gian giao mùa.
Trong đó, xây dựng Hệ thống cảnh báo, dự báo ô nhiễm môi trường không khí tại một số thành phố đô thị lớn trên cả nước (dự báo theo cách tiếp cận đa mô hình (multi-model) được nhiều nước trên thế giới và trong khu vực áp dụng), trong đó có thể dự báo chất lượng không khí ngắn hạn (24 - 48 giờ tiếp theo).
Hiện Hệ thống này đang trong giai đoạn hoàn thiện và vận hành thử nghiệm. Sau khi kết thúc giai đoạn vận hành thử nghiệm sẽ có đánh giá, hoàn thiện và đưa vào sử dụng trong thời gian tới.
Cục Môi trường sẽ công bố thông tin về dự báo chất lượng không khí ngắn hạn sau khi Hệ thống đi vào vận hành chính thức.
Bên cạnh đó, xây dựng hướng dẫn thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để ban hành hướng dẫn địa phương thực hiện (hiện đang trong giai đoạn hoàn thiện).
Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện (hiện đại hóa) và vận hành hệ thống quan trắc môi trường không khí xung quanh tự động, liên tục. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã kết nối, làm việc với Tập đoàn Vingroup để thảo luận về việc hỗ thành phố Hà Nội lắp đặt các trạm quan trắc không khí cảm biến (trạm Low Cost Sensor) để làm tăng dày số liệu quan trắc diễn biến chất lượng không khí.
Ngoài ra,theo tinh thần chỉ đạo quyết liệt của Phó Thủ tướng Chính Phủ Trần Hồng Hà, Cục Môi trường cũng đã khẩn trương xây dựng để trình ban hành dự thảo Quy chuẩn Việt Nam và lộ trình áp dụng đối với khí thải phương tiện giao thông và tham mưu Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường để kiểm soát khí thải từ xe ô tô, xe mô tô, xe gắn máy.
Về các giải pháp dài hạn (lâu dài): Cục Môi trường trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao đã xây dựng, hoàn thiện trình Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ như: Luật Bảo vệ môi trường 2020; Nghị định 08/2022/NĐ-CP năm 2022 và mới đây được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP của Chính Phủ, các Thông tư ban hành QCVN về chất lượng môi trường xung quanh, khí thải công nghiệp,…
Cụ thể hơn đối với công tác quản lý chất lượng không khí, Cục Môi trường đã xây dựng tham mưu Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành như: Quyết định 1973/QĐ-TTg ngày 23/11/2021 của Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí quốc gia giai đoạn 2021-2025; Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 18/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí,…
Ngoài ra, Cục Môi trường cũng đang tập trung nguồn lực nghiên cứu xây dựng và đã có dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025-2030, trong đó có các nội dung giải pháp cụ thể mang tính cấp bách, ngắn hạn cũng như đề ra các giải pháp dài hạn, căn cơ trong giai đoạn tiếp theo, để từng bước giảm thiểu mức độ ô nhiễm không khí.
Mới có 30/63 địa phương vận hành trạm quan trắc không khí tự động
Trong Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 2020, lần đầu tiên chúng ta có quy định về quản lý chất lượng môi trường không khí. Tuy nhiên, việc triển khai tại các địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Theo ông, đâu là rào cản lớn nhất và làm sao để biến quy định thành hành động thực chất?

Bầu trời Hà Nội trong một ngày trong xanh. Ảnh: Khương Trung.
Lĩnh vực mới như quản lý chất lượng môi trường không khí, vốn lần đầu tiên được luật hoá trong Luật BVMT 2020 và có một mục riêng quy định về bảo vệ môi trường không khí (Mục 2) đã mở ra nền tảng pháp lý rất quan trọng cho quản lý chất lượng môi trường không khí.
Để trả lời câu hỏi trên một cách thực chất, có thể nhìn nhận rào cản lớn nhất đó chính là thiếu năng lực và nguồn lực thực thi ở cấp địa phương, đó là:
Thiếu hệ thống quan trắc, giám sát đồng bộ và đủ độ phủ đủ để tạo cơ sở dữ liệu phục vụ cho quản lý. Nhiều địa phương chưa có đủ trạm quan trắc không khí tự động, liên tục, hoặc các trạm này hoạt động không ổn định, không có kết nối chia sẻ dữ liệu với cơ quan quản lý trung ương. (Thực tế số chỉ có 30/63 địa phương đã xây dựng và vận hành trạm quan trắc không khí tự động, liên tục)
Ở cấp Trung ương, số lượng cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường không khí còn rất hạn chế và ở cấp địa phương, về mặt năng lực và nguồn lực thiếu hụt là một rào cản lớn hơn nữa. Cán bộ chuyên môn tại các Sở Nông nghiệp và Môi trường, đặc biệt cấp huyện, xã, còn hạn chế về chuyên môn, thiếu kiến thức chuyên sâu về quản lý chất lượng không khí, mô hình hóa phát tán ô nhiễm, kiểm kê khí thải,… Có tình trạng một cán bộ kiêm nghiệm nhiều vấn đề chuyên môn phải xử lý, không chỉ riêng về không khí.
Nguồn lực đầu tư cho việc giảm thiểu ô nhiễm không khí là một rào cản quan trọng đối với việc triển khai các biện pháp, giải pháp đầy tham vọng về chất lượng không khí. Những nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm không khí đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ về nguồn lực tài chính, tuy nhiên thiếu kinh phí và và cơ chế tài chính không phù hợp đã không mang lại kết quả như mong muốn.
Cùng với đó, hiện chúng ta vẫn thiếu dữ liệu để xây dựng các chính sách và kế hoạch hành động. Dữ liệu còn thiếu như là các thông tin định lượng về các nguồn gây ô nhiễm không khí, chưa có cơ sở dữ liệu hồ sơ môi trường các cơ sở công nghiệp, chưa thực hiện kiểm kê phát thải khí thải...
Sự phối hợp liên ngành, việc kiểm soát nguồn thải (giao thông, công nghiệp, xây dựng…) thuộc nhiều ngành khác nhau, cơ chế phối hợp và ràng buộc chưa rõ ràng về trách nhiệm.
Trước những tồn tại như vậy, một số giải pháp cần thực hiện để biến các quy định thành hành động thực chất, đó là:
Ưu tiên xây dựng hệ thống quan trắc và chia sẻ dữ liệu không khí để độ phủ mạng lưới được đồng bộ, vận hành hiệu quả tại 63/63 tỉnh/thành, chia sẻ dữ liệu đảm bảo đủ căn cứ khoa học về mặt số liệu quan trắc để việc đưa ra các quyết định về quản lý chất lượng không khí được hiệu quả nhất.
Tăng cường năng lực cho địa phương thông qua tổ chức đào tạo, tập huấn định kỳ cho cán bộ môi trường địa phương về quản lý chất lượng không khí. Có thể hình thành mạng lưới chuyên gia hỗ trợ địa phương đánh giá chất lượng không khí và đề xuất chính sách phù hợp với đặc thù.
Cần có sự đầu tư đáng kể về mặt tài chính, ưu tiên các chương trình trọng điểm về giảm thiểu ô nhiễm. Cũng cần có sự hỗ trợ và kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc của địa phương liên quan đến vấn đề tài chính vì thực tế, trong giai đoạn 2021 đến nay, một số địa phương chưa ban hành hoặc ban hành muộn kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh do vướng mắc về hạn chế kinh phí, nguồn lực.
Quản lý, kiểm soát các nguồn thải cố định, di động, phân tán (nguồn điểm, nguồn di động, nguồn diện), tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Thực hiện kiểm kê, giám sát chặt chẽ các nguồn phát sinh khí thải để xác định chính xác mức độ đóng góp nguồn khí thải, bụi gây ô nhiễm môi trường không khí để có giải pháp ngăn chặn, giảm thiểu, xử lý đúng, hiệu quả.
Bố trí nguồn lực để thực thi các hành động về quản lý chất lượng không khí, bao gồm nhóm các hoạt động thường xuyên, liên tục như rửa đường, phun nước dập bụi tại các công trình, công trường xây dựng, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đốt,…
Xây dựng “Cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng, liên tỉnh trong công tác kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí” để triển khai thực hiện các vấn đề ô nhiễm môi trường không khí có phạm vi liên vùng, liên tỉnh.
Các cơ quan truyền thông sử dụng các kết quả, dữ liệu quan trắc chất lượng môi trường không khí chính thống do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện để cung cấp thông tin cho cộng đồng xã hội thông qua các phương tiện truyền thông hoặc thông tin dự báo thời tiết hàng ngày.
Việt Nam học hỏi từ chính sách cho tới các giải pháp công trình
Nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu đã có kinh nghiệm kiểm soát không khí rất hiệu quả, thậm chí áp dụng các mô hình cảnh báo sớm và vùng phát thải thấp. Việt Nam đã học hỏi được gì từ những kinh nghiệm này và liệu chúng ta có lộ trình để áp dụng các mô hình như “Low Emission Zone” hay cảnh báo PM2.5 theo thời gian thực không, thưa ông?
Hiện nay ở châu Âu, nhiều thành phố như London, Paris đã triển khai vùng phát thải thấp (LEZ) để hạn chế phương tiện phát thải cao vào khu vực trung tâm, góp phần giảm nồng độ bụi mịn và khí độc hại.
Trong khi đó, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng áp dụng hệ thống cảnh báo chất lượng không khí theo thời gian thực, kết hợp với các biện pháp hạn chế phương tiện cá nhân và thúc đẩy sử dụng phương tiện sạch.
Với những mô hình đã được thực hiện tại các quốc gia phát triển, Việt Nam có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ chính sách cho tới các giải pháp công trình.
Quốc hội đã thông qua Luật Thủ đô cho thành phố Hà Nội. Tại Điều 28 của Luật Thủ đô quy định tiêu chí hoặc quy định các giải pháp để xây dựng các vùng phát thải thấp. Đây là một cơ sở pháp lý rất quan trọng để Hà Nội có định hướng và cơ sở để xây dựng các khu vực phát thải thấp cho thành phố.
Hội đồng nhân dân thành phố đã ban hành Nghị quyết 47/2024/NQ-HĐND về việc quy định thực hiện vùng phát thải thấp trên địa bàn thành phố Hà Nội, nhằm định hình khu vực phát thải thấp đầu tiên tại khu vực nội đô.
Theo Nghị quyết, quy định thực hiện vùng phát thải thấp trên địa bàn TP Hà Nội có hiệu lực từ 1/1/2025. Từ năm 2025 đến năm 2030, Hà Nội sẽ thí điểm lập vùng phát thải thấp ở một khu vực trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Ba Đình và khuyến khích các địa phương lập vùng phát thải thấp. Hiện Hoàn Kiếm dự kiến chọn khu vực không gian đi bộ Hồ Gươm và vùng phụ cận, khu vực phố cổ để thí điểm vùng phát thải thấp vì các khu vực này đã tổ chức phố đi bộ và cấm phương tiện vào cuối tuần.
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế, vùng phát thải thấp là khu vực được xác định để hạn chế các phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường nhằm cải thiện chất lượng không khí. Hướng tới khuyến khích sử dụng giao thông xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống nói chung.
Tôi cho rằng, việc xây dựng vùng phát thải thấp là một trong những giải pháp then chốt trong định hướng quy hoạch đô thị mới nhằm cải thiện chất lượng không khí Hà Nội. Đây không chỉ là biện pháp hạn chế nguồn phát thải trực tiếp, mà còn là cú hích để thúc đẩy người dân chuyển sang sử dụng các phương tiện xanh như xe buýt điện, xe đạp công cộng, tàu điện đô thị.
Để có lộ trình áp dụng vùng phát thải thấp đối với quy mô quốc gia đảm bảo tính khả thi hiệu quả thì cần thời gian để đánh giá hiệu quả thực tế và rút ra các kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện của TP Hà Nội, từ đó mới có thể đưa ra được lộ trình triển khai áp dụng vùng phát thải thấp trên các địa phương khác một cách chính xác, hiệu quả nhất./.
Trân trọng cảm ơn ông!