| Hotline: 0983.970.780

Trồng trọt giảm phát thải: Cơ sở quan trọng tiếp cận thị trường tín chỉ carbon

Thứ Tư 01/10/2025 , 07:39 (GMT+7)

Ngày 29/9, Bộ Nông nghiệp và Môi trường ký Quyết định số 4024/QĐ-BNNMT phê duyệt Đề án 'Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050'.

Con đường để xây dựng hình ảnh nông nghiệp Việt Nam

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, khó lường và tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, ngành nông nghiệp nói chung, lĩnh vực trồng trọt nói riêng đang đứng trước nhiều thách thức to lớn. Điều này đòi hỏi phải có định hướng chiến lược cùng những hành động cụ thể, kịp thời nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính theo đúng cam kết quốc tế.

Tổng phát thải của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO₂ tương đương. Ảnh: Trung Chánh.

Tổng phát thải của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO₂ tương đương. Ảnh: Trung Chánh.

Theo số liệu kiểm kê khí nhà kính quốc gia năm 2020, tổng phát thải của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO₂ tương đương, gần gấp đôi so với năm 2010. Trong đó, nông nghiệp chiếm khoảng 116,51 triệu tấn, riêng trồng trọt (chủ yếu từ canh tác lúa, một số cây trồng chủ lực và việc đốt phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng) chiếm tới 80% phát thải của toàn ngành.

Hiện nay, bên cạnh cây lúa, nhiều nhóm cây trồng khác như ngô, sắn, đậu tương, rau màu, cây ăn quả đều có tiềm năng áp dụng các giải pháp canh tác giảm phát thải nhằm giảm sử dụng phân bón, tăng khả năng hấp thụ carbon, cải thiện sức khỏe đất, tiết kiệm tài nguyên và hướng tới sản xuất bền vững. Tuy nhiên, những mô hình này mới dừng lại ở quy mô thí điểm, rời rạc, chưa có chương trình cấp quốc gia định hướng và hỗ trợ tổng thể.

Trong khi đó, các thị trường tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới đang ngày càng siết chặt các yêu cầu về phát thải carbon, chứng nhận bền vững, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường. Nếu chậm triển khai các chương trình sản xuất giảm phát thải, nông sản Việt Nam sẽ gặp bất lợi trong xuất khẩu, suy giảm khả năng cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Thực tế cho thấy, canh tác giảm phát thải không chỉ là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu mà còn mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho nông dân, doanh nghiệp và quốc gia. Các quy trình như tưới ngập - khô xen kẽ (AWD), quản lý dinh dưỡng tổng hợp, canh tác hữu cơ, nông nghiệp chính xác hay nông nghiệp thông minh với khí hậu giúp giảm đáng kể lượng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới, qua đó hạ chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho nông dân. Đồng thời, chúng cải thiện sức khỏe đất, bảo vệ đa dạng sinh học, giảm ô nhiễm môi trường và nâng cao chất lượng nông sản.

Các thị trường tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới đang ngày càng siết chặt các yêu cầu về phát thải carbon, chứng nhận bền vững, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường. Ảnh: An Bình.

Các thị trường tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới đang ngày càng siết chặt các yêu cầu về phát thải carbon, chứng nhận bền vững, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường. Ảnh: An Bình.

Về lâu dài, phát triển trồng trọt theo hướng giảm phát thải chính là con đường để xây dựng hình ảnh một nền nông nghiệp Việt Nam có trách nhiệm với môi trường, trình độ canh tác cao, đủ năng lực hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng là cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp cận thị trường tín chỉ carbon cả tự nguyện và bắt buộc, hình thành các dự án tín chỉ carbon trong nông nghiệp, tạo nguồn lực tài chính mới cho nông dân và doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh của toàn ngành.

Tuy nhiên, để đạt được điều đó, cần sự dẫn dắt thống nhất của cơ quan quản lý nhà nước thông qua một chương trình tổng thể, có tầm nhìn dài hạn, tích hợp đồng bộ các giải pháp về kỹ thuật, chính sách, tài chính, khoa học công nghệ, đào tạo, truyền thông và hợp tác quốc tế. Chương trình phải xác định rõ nhóm cây trồng chủ lực có tiềm năng giảm phát thải, xây dựng bộ tiêu chí và hướng dẫn kỹ thuật, tiến tới thiết lập cơ chế giám sát, đánh giá phát thải minh bạch và hiệu quả.

Điều kiện để phát triển tín chỉ carbon từ trồng trọt

Đề án nêu rõ: Nguồn phát thải chủ yếu trong trồng trọt xuất phát từ ruộng lúa ngập nước cùng việc vùi rơm rạ không qua xử lý, chiếm gần 57% lượng khí thải metan (CH₄). Ngoài ra, phân bón vô cơ, đặc biệt là lượng phân đạm bón thừa và thiếu kiểm soát, góp phần phát thải N₂O từ đất. Thói quen đốt rơm rạ sau thu hoạch không chỉ làm tăng phát thải CO₂ mà còn sinh ra nhiều khí độc hại khác. Một phần phát thải khác đến từ xử lý bao bì vật tư nông nghiệp sau sử dụng cũng như nhiên liệu khai thác, sản xuất phục vụ canh tác.

Mô hình trồng lúa giảm phát thải khí nhà kính gắn với tín chỉ carbon tại xã Ứng Hoà, Hà Nội. Ảnh: Phùng Lương.

Mô hình trồng lúa giảm phát thải khí nhà kính gắn với tín chỉ carbon tại xã Ứng Hoà, Hà Nội. Ảnh: Phùng Lương.

Mô hình canh tác truyền thống ở Việt Nam, đặc biệt với cây lúa vẫn phụ thuộc nhiều vào nước tưới lãng phí, phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật sử dụng chưa hợp lý. Quản lý đất chưa bền vững dẫn tới hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp, trong khi quy mô sản xuất nhỏ lẻ và trình độ kỹ thuật còn hạn chế đã khiến đất thoái hóa nhanh chóng.

Nông dân phải gánh chi phí đầu vào ngày càng cao, sản xuất thiếu bền vững, chất lượng nông sản không ổn định, sức khỏe đất suy giảm, thu nhập vì thế cũng bấp bênh. Hệ quả lớn hơn là phát thải khí nhà kính tăng cao, trong khi nhận thức về canh tác giảm phát thải của cả người sản xuất và cán bộ quản lý còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu giảm phát thải mà Việt Nam đã cam kết với quốc tế.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, hệ thống canh tác giảm phát thải trong trồng trọt vẫn đối diện hàng loạt khó khăn. Hiện chưa có một chương trình tổng thể cấp quốc gia dành riêng cho trồng trọt như đối với năng lượng hay giao thông. Kiến thức và nhận thức về giảm phát thải, đặc biệt là khí metan vẫn còn hạn chế trong cả cộng đồng nông dân lẫn đội ngũ quản lý.

Một số mô hình điểm về lúa đã được triển khai, nhưng với các cây trồng cạn khác, nghiên cứu và giải pháp kỹ thuật còn rất ít. Hệ thống đo lường – báo cáo – thẩm định (MRV) chưa hoàn thiện, dữ liệu còn thiếu, chủ yếu dựa vào định tính. Cơ chế tài chính hỗ trợ chuyển đổi chưa rõ ràng, nông dân thiếu vốn, thiếu khuyến khích để thay đổi kỹ thuật. Bên cạnh đó, việc tiếp cận thị trường tín chỉ carbon từ trồng trọt còn hạn chế khi thiếu hướng dẫn cụ thể và thiếu đơn vị trung gian hỗ trợ.

Mô hình canh tác lúa giảm phát thải khí nhà kính được áp dụng thử nghiệm tại Hải Dương (cũ). Ảnh: TM.

Mô hình canh tác lúa giảm phát thải khí nhà kính được áp dụng thử nghiệm tại Hải Dương (cũ). Ảnh: TM.

Dù vậy, tiềm năng giảm phát thải trong trồng trọt vẫn rất lớn. Ngoài cây lúa, các cây trồng chủ lực như sắn, mía, rau màu và cây ăn quả đều có thể áp dụng các giải pháp tiết kiệm tài nguyên, giảm phân bón hóa học, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, tái chế phụ phẩm và ứng dụng công nghệ mới.

Với lúa, có thể tưới ngập - khô xen kẽ, giảm lượng phân đạm, dùng giống phù hợp, tận dụng rơm rạ và tiến tới canh tác hữu cơ. Với sắn, mía hay cây ăn quả, những biện pháp như luân canh, tái canh, tăng che phủ, tiết kiệm nước, dùng biochar, tuần hoàn phế phụ phẩm đều cho thấy hiệu quả tích cực.

Xa hơn, việc thúc đẩy thị trường nông sản được chứng nhận sản xuất giảm phát thải và chuẩn bị điều kiện để phát triển tín chỉ carbon từ trồng trọt sẽ mở ra cơ hội để ngành nông nghiệp Việt Nam, vừa đảm bảo sinh kế nông dân, vừa khẳng định vai trò tích cực trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu.

Xây dựng nhãn hiệu "Phát thải thấp"

Đề án đặt mục tiêu chung là triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi hệ thống sản xuất trồng trọt theo hướng phát thải thấp, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất và cải thiện sinh kế cho nông dân.

Mô hình trồng lúa giảm phát thải ở ĐBSCL. Ảnh: Hồ Hoàng Hải.

Mô hình trồng lúa giảm phát thải ở ĐBSCL. Ảnh: Hồ Hoàng Hải.

Đề án hướng đến xây dựng ngành trồng trọt có năng lực cạnh tranh cao, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, từng bước hình thành nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, có khả năng chống chịu trước những tác động khắc nghiệt của khí hậu và đáp ứng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã đưa ra trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).

Đến năm 2035, lĩnh vực trồng trọt sẽ góp phần giảm tối thiểu 15% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020. Cùng với đó, ngành sẽ xây dựng và phát triển nhãn hiệu “Phát thải thấp” cho các sản phẩm trồng trọt, tạo cơ sở cho việc gia tăng giá trị và khẳng định thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường.

Mỗi tỉnh, thành phố phấn đấu triển khai ít nhất một đến hai mô hình sản xuất giảm phát thải có khả năng nhân rộng, đồng thời thí điểm khoảng 15 mô hình canh tác hướng tới phát triển tín chỉ carbon, đáp ứng yêu cầu của các tổ chức quốc tế.

Đề án đặt mục tiêu ban hành tối thiểu 5 gói kỹ thuật áp dụng cho các cây trồng chủ lực, đồng thời hình thành cơ sở dữ liệu phát thải trong trồng trọt kết nối với Hệ thống đăng ký quốc gia. Hoạt động đào tạo, tập huấn sẽ được triển khai sâu rộng với ít nhất 3.000 cán bộ kỹ thuật cơ sở, khuyến nông, nông dân và doanh nghiệp được trang bị kiến thức về kỹ thuật, chính sách, cũng như công cụ đo phát thải.

Song song đó, 5 bộ tài liệu truyền thông sẽ được xây dựng, góp phần nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi sản xuất của nông dân theo hướng giảm phát thải.

Đến năm 2050, ngành trồng trọt Việt Nam được định hình theo hướng phát thải thấp, sinh thái và hiện đại, trở thành một trong những trụ cột của quá trình chuyển đổi xanh trong nông nghiệp. Hoạt động sản xuất sẽ được tổ chức theo chuỗi giá trị tuần hoàn, ứng dụng công nghệ số và nông nghiệp thông minh, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước và vật tư đầu vào. Không chỉ kiểm soát mà còn hướng đến hấp thụ và bù đắp phát thải, ngành trồng trọt sẽ phấn đấu 100% diện tích cây trồng chủ lực áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác bền vững.

Trồng lúa giảm phát thải giúp người dân giảm được chi phí, tăng lợi nhuận. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Trồng lúa giảm phát thải giúp người dân giảm được chi phí, tăng lợi nhuận. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Cùng với đó, hệ thống dữ liệu số hóa về phát thải sẽ được hoàn thiện, kết nối đồng bộ với cơ chế giám sát quốc gia, trong khi nhãn hiệu “Phát thải thấp” trở thành chuẩn mực phổ biến đối với nông sản Việt Nam. Với những bước tiến này, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển nông sản có trách nhiệm với khí hậu, tạo dựng lợi thế cạnh tranh xanh trên thị trường quốc tế và đóng góp thiết thực vào mục tiêu phát thải ròng bằng “0” theo cam kết tại COP26.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chủ trì, hướng dẫn triển khai Đề án theo từng giai đoạn. Tổ chức, điều phối triển khai các nội dung của Đề án và kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện Đề án trên toàn quốc.

Tổng hợp nhu cầu, xây dựng danh mục các nhiệm vụ, dự án thành phần và đề xuất bố trí nguồn lực thực hiện. Chủ trì phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Bộ để xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu phát thải trong trồng trọt kết nối đồng bộ với Hệ thống đăng ký quốc gia.

Linh hoạt chuyển đổi cơ cấu cây trồng

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đề án là chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng linh hoạt, phù hợp với đặc điểm sinh thái và trình độ canh tác của từng vùng. Việt Nam sẽ tiếp tục mở rộng diện tích cây trồng lâu năm có giá trị kinh tế cao, vừa tăng hiệu quả sản xuất vừa góp phần hấp thu carbon. Trên những diện tích lúa kém hiệu quả, việc chuyển đổi sang cây trồng cạn hoặc kết hợp lúa với nuôi trồng thủy sản sẽ được khuyến khích. Các mô hình một vụ lúa, một vụ màu cũng được đẩy mạnh nhằm cải thiện sức khỏe đất, tăng thu nhập cho nông dân và giảm phát thải.

Song song với đó, Đề án đặt nhiệm vụ xây dựng và áp dụng các gói kỹ thuật giảm phát thải trong sản xuất trồng trọt. Trước hết là việc rà soát, đánh giá hiện trạng phát thải khí nhà kính của những cây trồng chủ lực, từ đó hoàn thiện các gói kỹ thuật phù hợp với từng vùng sinh thái. 

Các giải pháp kỹ thuật bao gồm quản lý nước tưới tiết kiệm trong sản xuất lúa (tưới ngập - khô xen kẽ), các mô hình “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI); quản lý dinh dưỡng hợp lý với phân hữu cơ, phân vi sinh, phân chậm tan; giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học, thay thế bằng biện pháp sinh học và nông nghiệp hữu cơ; canh tác bảo vệ tài nguyên đất, luân canh hợp lý và sử dụng hiệu quả phụ phẩm nông nghiệp.

Đặc biệt, công nghệ số sẽ được đưa vào sản xuất với cảm biến thông minh điều tiết nước, bón phân, phun thuốc, phân tích đất kết hợp các biện pháp tích trữ carbon trong đất, sản xuất than sinh học, sử dụng bèo hoa dâu… Những tiến bộ này sẽ được biên soạn thành tài liệu hướng dẫn kỹ thuật theo nhóm cây trồng và tích hợp trong hệ thống khuyến nông.

Tiềm năng giảm phát thải trong trồng trọt vẫn rất lớn. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Tiềm năng giảm phát thải trong trồng trọt vẫn rất lớn. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Đề án cũng xác định rõ nhiệm vụ nâng cao năng lực và chuyển đổi nhận thức. Các chương trình truyền thông, đào tạo và tập huấn sẽ được triển khai cho cán bộ quản lý, khuyến nông, nông dân nòng cốt và doanh nghiệp, với nội dung về kỹ thuật giảm phát thải, hệ thống MRV, tín chỉ carbon và chuỗi giá trị tuần hoàn. Bộ tài liệu chuẩn hóa gồm sổ tay, tờ rơi, infographic, video… sẽ được biên soạn phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng.

Truyền thông sẽ được mở rộng qua báo chí, mạng xã hội, truyền hình, hội chợ và triển lãm, đồng thời lồng ghép nội dung giảm phát thải trong các chương trình đào tạo nghề, khuyến nông và chuyển giao kỹ thuật. Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác với FAO, WB, GIZ, UNDP, IFAD, JICA… để hỗ trợ kỹ thuật, triển khai mô hình, xây dựng năng lực MRV và kết nối tín chỉ carbon.

Đề án đặt nhiệm vụ kết nối thị trường cho sản phẩm phát thải thấp. Các chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sẽ được tổ chức, gắn vùng nguyên liệu với doanh nghiệp thu mua, phân phối và xuất khẩu. Hệ thống chứng nhận sản phẩm phát thải thấp sẽ được xây dựng, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu.

Một số ngành hàng chủ lực như lúa gạo, rau quả, cà phê, hồ tiêu sẽ được thí điểm cấp nhãn hiệu, sau đó mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời, hệ thống thị trường tiêu thụ nông sản phát thải thấp sẽ được hình thành với các chương trình truyền thông tiêu dùng xanh, khuyến khích lựa chọn sản phẩm thân thiện với môi trường.

Để tổ chức thực hiện Đề án, Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao Báo Nông nghiệp và Môi trường xây dựng chuyên trang/chuyên mục truyền thông cho các nội dung liên quan của Đề án. Tổ chức các diễn đàn truyền thông trồng trọt phát thải thấp. Tổ chức các chiến dịch truyền thông cho nhóm cây trồng có tiềm năng chuyển đổi canh tác phát thải thấp. Xây dựng các học liệu truyền thông, phổ cập các quy trình canh tác phát thải thấp, các nội dung nâng cao nhận thức về canh tác phát thải thấp.

Xem thêm
Hình thành vùng chăn nuôi lớn, hiện đại sau sáp nhập

AN GIANG Sau sáp nhập, An Giang và Kiên Giang, tỉnh An Giang mới thu hút doanh nghiệp chăn nuôi hiện đại quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, tạo sản phẩm phục vụ thị trường.

Dịch bệnh liên tiếp tấn công, người nuôi tôm thiệt hại nặng nề

QUẢNG NGÃI Nhiều hộ nuôi tôm ở Quảng Ngãi đang đối mặt thiệt hại nặng nề khi dịch bệnh liên tiếp tấn công, thua lỗ hàng trăm triệu đồng, lao đao tìm cách duy trì sinh kế.

Công nghệ thông minh thực hành tưới ướt khô xen kẽ trong canh tác lúa

An Giang Hệ thống thiết bị thông minh AWD giúp tiết kiệm nước, giảm khí thải nhà kính, hướng đến nhân rộng trong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp.

Nông nghiệp công nghệ cao dẫn dắt kinh tế xanh

Đà Nẵng định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thông minh và sinh thái, coi đây là một trong những trụ cột chiến lược, tạo động lực phát triển kinh tế xanh.

Biến bùn thải thành ‘vàng nâu’

TP.HCM Bằng sáng kiến tái chế bùn thải, Công ty cổ phần Cao su Phước Hòa không chỉ tiết kiệm hàng tỷ đồng chi phí mà còn mở lối 'xanh hóa' ngành cao su.

Người nuôi tôm thất thần khi siêu bão tràn qua

Nghệ An Siêu bão Bualoi với sức càn quét kinh hoàng đã tàn phá Nghệ An trên nhiều phương diện, trong đó người nuôi tôm gánh chịu tổn thất nặng nề.

Nỗi niềm những người bảo vệ khu bảo tồn thiên nhiên

TP Cần Thơ Theo chân chuyến tuần tra trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng mới thấy hết hiểm nguy, gian truân mà những người giữ rừng phải đối mặt từng đêm.