Giảm ít nhất 15% phát thải khí nhà kính đến 2035
Đề án trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025–2035 vừa được Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng ký ban hành tại Quyết định số 4024/QĐ-BNNMT ngày 29/9, đặt mục tiêu đưa lĩnh vực trồng trọt vào quỹ đạo phát thải thấp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Điểm nhấn quan trọng là đến 2035, trồng trọt phải góp phần cắt giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với 2020.

Nông dân Đồng Tháp tham gia tập huấn kỹ thuật sản xuất phân hữu cơ từ phế phụ phẩm nông nghiệp. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Cùng với đó, Bộ sẽ xây dựng và ban hành nhãn hiệu “Phát thải thấp” cho các sản phẩm ngành hàng trồng trọt. Tất cả các tỉnh, thành phố phải triển khai ít nhất 1-2 mô hình sản xuất giảm phát thải có khả năng nhân rộng. Tối thiểu 15 mô hình được thí điểm nhằm phát triển tín chỉ carbon, đủ điều kiện tham gia thị trường quốc tế.
Tầm nhìn dài hạn đến 2050 còn tham vọng hơn. Đó là 100% diện tích cây trồng chủ lực áp dụng quy trình canh tác bền vững; toàn bộ dữ liệu phát thải được số hóa và liên thông với hệ thống giám sát quốc gia; nhãn hiệu “Phát thải thấp” phổ cập trên các ngành hàng chủ lực, giúp Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về nông sản gắn trách nhiệm khí hậu.
Thí điểm mô hình, chuẩn hóa kỹ thuật và xây dựng cơ sở dữ liệu
Để đạt được mục tiêu, đề án xác định hàng loạt nhiệm vụ cụ thể. Trước hết là cơ cấu lại sản xuất, từ diện tích lúa kém hiệu quả sẽ chuyển sang cây trồng cạn giá trị cao hoặc kết hợp với thủy sản, đồng thời thử nghiệm mô hình “một vụ lúa - một vụ màu” nhằm cải tạo đất, giảm phát thải. Với cây lâu năm, ưu tiên phát triển các loại vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa có khả năng hấp thu carbon tốt.
Nhiệm vụ thứ hai là chuẩn hóa các gói kỹ thuật canh tác giảm phát thải. Những biện pháp đã được xác định gồm: tưới ngập khô xen kẽ trong trồng lúa, áp dụng hệ thống thâm canh cải tiến (SRI), giảm lượng phân bón vô cơ bằng cách tăng cường phân hữu cơ, vi sinh và phân chậm tan, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học bằng giải pháp sinh học.
Công nghệ số được đưa vào để giám sát độ ẩm đất, điều tiết phân bón và thuốc, tăng hiệu quả và cắt giảm khí thải.
Một trọng tâm khác là phát triển mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị. Các mô hình trình diễn sẽ được triển khai tại vùng sản xuất hàng hóa tập trung, gắn kết nông dân - HTX - doanh nghiệp. Những mô hình này vừa ứng dụng kỹ thuật phát thải thấp, vừa bảo đảm có cơ chế đo lường - báo cáo - thẩm định (MRV) theo tiêu chuẩn quốc tế.
Song song, cơ sở dữ liệu quốc gia về phát thải trồng trọt sẽ được hình thành, tích hợp thông tin theo vùng sinh thái, cây trồng và kỹ thuật áp dụng. Đây là nền tảng để liên thông với hệ thống kiểm kê khí nhà kính quốc gia, đồng thời phục vụ minh bạch hóa số liệu khi tham gia thị trường carbon.
Ngoài ra, công tác đào tạo, truyền thông được đặc biệt coi trọng. Tối thiểu 3.000 cán bộ kỹ thuật, khuyến nông và nông dân chủ chốt sẽ được tập huấn về phương pháp canh tác giảm phát thải, MRV và tín chỉ carbon. 5 bộ tài liệu truyền thông chuẩn hóa sẽ được biên soạn, phổ biến rộng rãi nhằm thay đổi hành vi sản xuất của nông dân.

Nông dân Hà Tĩnh chuyển đổi đất lúa sang trồng dưa lê, dưa bở, dưa hấu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: Hưng Phúc.
Hoàn thiện thể chế, huy động tài chính và mở rộng hợp tác quốc tế
Đề án đưa ra 7 nhóm giải pháp để hiện thực hóa mục tiêu. Trước hết là hoàn thiện chính sách. Theo đó, các văn bản pháp luật sẽ được rà soát, bổ sung, lồng ghép yêu cầu giảm phát thải vào chiến lược, quy hoạch và chương trình trồng trọt. Nhà nước sẽ ban hành bộ tiêu chí canh tác phát thải thấp, đồng thời triển khai các chính sách ưu đãi tài chính cho nông dân, HTX và doanh nghiệp chuyển đổi.
Về khoa học công nghệ, Đề án đưa ra giải pháp tập trung nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo, cảm biến thông minh, nông nghiệp chính xác được ưu tiên để quản lý nước, dinh dưỡng và giám sát phát thải. Những sáng kiến như sản xuất than sinh học từ phế phụ phẩm, luân canh hợp lý, hay đưa bèo hoa dâu vào hệ thống canh tác cũng được khuyến khích nhằm tăng tích trữ carbon trong đất.
Về tổ chức sản xuất, HTX được coi là hạt nhân trong liên kết chuỗi giá trị. Doanh nghiệp được khuyến khích đầu tư vùng nguyên liệu, đồng quản lý phát thải với nông dân và tham gia truy xuất nguồn gốc carbon. Thị trường tiêu thụ nông sản phát thải thấp sẽ được mở rộng, trước hết ở những thị trường yêu cầu cao như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ.
Giải pháp về dữ liệu tập trung vào hoàn thiện hệ thống MRV và cơ sở dữ liệu phát thải, ứng dụng viễn thám, GIS và báo cáo số hóa để giám sát diện rộng. Các thông tin này sẽ được liên thông với kiểm kê khí nhà kính quốc gia, đảm bảo minh bạch và đồng bộ.
Về nguồn lực, ngân sách nhà nước đóng vai trò “dẫn dắt”, song song với huy động vốn xã hội hóa và tài trợ quốc tế. Các chương trình đào tạo, truyền thông cũng sẽ lồng ghép nội dung sản xuất phát thải thấp, phổ cập kiến thức tín chỉ carbon và tiêu dùng xanh.
Cuối cùng, hợp tác quốc tế được nhấn mạnh. Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tăng cường kết nối với FAO, WB, GIZ, JICA, UNDP, IFAD và nhiều tổ chức khác để tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, cũng như học hỏi kinh nghiệm quản lý. Việt Nam cũng sẽ tham gia các diễn đàn và sáng kiến toàn cầu về nông nghiệp phát thải thấp, mở đường cho nông sản Việt khẳng định vị thế trên thị trường xanh.
Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật được giao làm cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm hướng dẫn, điều phối và giám sát việc triển khai đề án trên phạm vi cả nước. Các đơn vị như Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Vụ Khoa học và Công nghệ, Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Biến đổi khí hậu, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam sẽ phối hợp thực hiện các nội dung chuyên môn, đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật.
Công tác truyền thông được giao cho Báo Nông nghiệp và Môi trường thông qua chuyên trang, diễn đàn và chiến dịch lan tỏa mô hình sản xuất phát thải thấp.
Ở cấp địa phương, UBND tỉnh, thành phố có trách nhiệm ban hành kế hoạch hành động, lồng ghép mục tiêu của đề án vào phát triển kinh tế - xã hội, huy động nguồn lực và tổ chức giám sát thực hiện. Bên cạnh đó, doanh nghiệp, HTX, hiệp hội ngành hàng cùng các tổ chức quốc tế sẽ tham gia tích cực trong việc hỗ trợ tài chính, kỹ thuật, kết nối thị trường và phát triển tín chỉ carbon.