| Hotline: 0983.970.780

‘Phép thử kép’ cho công cuộc thoát nghèo

Chủ Nhật 02/11/2025 , 21:42 (GMT+7)

Việt Nam đứng trước một ‘phép thử kép’ là bảo đảm an ninh nguồn nước trong bối cảnh phát triển kinh tế nhanh, ứng phó BĐKH, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Nguy cơ thiếu nước và bất bình đẳng

Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự gia tăng dân số và đô thị hóa đã đẩy nhu cầu sử dụng nước lên mức báo động. Theo phân tích, nhu cầu dùng nước ở nước ta có thể lên tới 130 - 150 tỷ m3/năm, chiếm gần 50% tổng lượng nước sản sinh và xấp xỉ 90% nguồn nước mùa khô (khoảng 170 tỷ m3).

Điều đó cho thấy, nguy cơ thiếu nước là rõ ràng và ở mức nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt, nước ngầm, và khan hiếm nước cục bộ ở một số khu vực như Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Điều đáng quan ngại là cuộc khủng hoảng nước không phân bổ đồng đều mà đẩy gánh nặng nặng nề nhất lên vai người nghèo và các cộng đồng dễ bị tổn thương. Số liệu thống kê đã chỉ ra rõ sự bất bình đẳng khi tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước sạch chỉ đạt 57%, thấp hơn đáng kể so với mức 89% ở thành thị.

Nước sạch ở nông thôn vẫn là một bài toán khó. Ảnh: Thủy Nhi.

Nước sạch ở nông thôn vẫn là một bài toán khó. Ảnh: Thủy Nhi.

Tương tự, tỷ lệ người dân nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh là 59%, trong khi ở thành phố là 92% tạo ra một vòng luẩn quẩn thiếu nước sạch và vệ sinh kém dẫn đến bệnh tật, giảm khả năng lao động, tăng chi phí y tế, qua đó, làm cản trở khả năng thoát nghèo.

Sự cạnh tranh giữa sử dụng nước cho thủy điện và nhu cầu sản xuất nông nghiệp ở hạ du một số lưu vực sông lớn càng làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu nước cho sinh kế của các hộ nghèo. Đặc biệt, BĐKH trở thành chất xúc tác làm gia tăng sự bất ổn. Các hiện tượng bất thường về nước như hạn hán hoặc lũ lụt sẽ tác động hủy hoại lên nhóm nghèo nhiều hơn các nhóm khác.

Theo các chuyên gia, Việt Nam đang thiếu phương thức phân bổ và sử dụng nước hiệu quả. Các quyết định phân bổ nguồn nước phải luôn đặt lợi ích của người nghèo và bảo vệ môi trường lên hàng đầu, nếu không, thiệt hại đối với tăng trưởng GDP sẽ còn lớn hơn cả suy giảm kinh tế thông thường.

Chuyển từ quản lý sang quản trị

Theo bà Nguyễn Thị Phương Hoa - Trưởng phòng Lưu vực sông Nam Trung Bộ (Cục Quản lý Tài nguyên nước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam đã nhận diện rõ thách thức và đang thực hiện một sự chuyển đổi căn bản trong cách tiếp cận vấn đề nước. Thay vì coi nước là vấn đề địa phương như trước đây, chúng ta phải coi nước là vấn đề toàn cầu và là thách thức liên ngành, liên chức năng, đặc biệt khi hơn 60% lượng nước đến từ nước ngoài chảy vào.

Cùng với đó, thay vì lên kế hoạch cho trường hợp chuẩn hóa với xác suất đã biết, cách tiếp cận mới là lên kế hoạch cho tương lai với thời tiết ngày càng biến động.

Sự cạnh tranh giữa sử dụng nước cho thủy điện và nhu cầu sản xuất nông nghiệp cũng cần phải cân đối. Ảnh: Thủy Nhi.

Sự cạnh tranh giữa sử dụng nước cho thủy điện và nhu cầu sản xuất nông nghiệp cũng cần phải cân đối. Ảnh: Thủy Nhi.

Sự thay đổi căn bản nhất nằm ở khung khổ thể chế với việc Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tháng 11/2023 đánh dấu bước tiến lớn, chuyển từ quản lý bằng mệnh lệnh sang quản lý bằng công cụ kinh tế và cộng đồng.

Các điểm đột phá là áp dụng cơ chế giá nước theo thị trường có kiểm soát để khuyến khích sử dụng tiết kiệm, hiệu quả; tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp và mở rộng quyền giám sát của người dân.

"Sự cần thiết của việc phân quyền rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, lồng ghép quy hoạch tài nguyên nước với quy hoạch đất đai, đô thị, nông nghiệp để khai thác nước hợp lý hơn, phù hợp với khả năng chịu tải của môi trường từng vùng. Một trong những thay đổi căn bản khác là chuyển sang quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số. Tài nguyên nước được quản lý như một tài sản công thông qua hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia. Đặc biệt, quy hoạch tài nguyên nước quốc gia và 8 quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh đã được ban hành là công cụ quan trọng để điều phối sử dụng nước giữa các ngành, vùng, miền, bảo đảm sự công bằng và hiệu quả, đồng thời tạo nền tảng cho ứng phó với BĐKH, hạn hán và xâm nhập mặn", bà Nguyễn Thị Phương Hoa cho biết.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng các công cụ số hiện đại, trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ giúp điều hòa nguồn nước theo thời gian thực, nâng cao hiệu quả sử dụng và nâng cao giá trị của tài nguyên nước, đặc biệt trong vận hành liên hồ chứa để giảm thiểu tác hại do nước gây ra.

Ưu tiên giải pháp thể chế và công nghệ số

Bà Nguyễn Thị Phương Hoa chia sẻ thêm, trước áp lực ngày càng gia tăng giữa các nhu cầu sử dụng nước cho thủy điện, nông nghiệp và sinh hoạt, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nguồn nước xuyên biên giới biến động khó lường, Việt Nam cần ưu tiên các giải pháp thể chế, công nghệ số và phân quyền hiệu quả để quản trị tài nguyên nước bền vững.

Trọng tâm hiện nay là xây dựng Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia và bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định (DSS) dựa trên nền tảng công nghệ số, ứng dụng AI và dữ liệu lớn. Hệ thống này cho phép theo dõi, phân tích và dự báo nguồn nước theo thời gian thực, hỗ trợ ra quyết định điều hòa, phân bổ nước một cách linh hoạt, đặc biệt trong các tình huống thiếu nước, hạn hán.

Dụng cụ chứa nước và hỗ trợ nước ngọt cho người dân vùng hạn mặn là rất cần thiết. Ảnh: Thủy Nhi.

Dụng cụ chứa nước và hỗ trợ nước ngọt cho người dân vùng hạn mặn là rất cần thiết. Ảnh: Thủy Nhi.

Định hướng này hoàn toàn phù hợp với Điều 4 Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), khẳng định mục tiêu hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa quản lý tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số, hướng tới sử dụng hiệu quả và hài hòa nguồn tài nguyên quan trọng này.

Song song đó, cần hoàn thiện thể chế phân cấp, phân quyền quản lý tài nguyên nước, đảm bảo vai trò điều phối thống nhất của Trung ương, đồng thời tăng cường năng lực và trách nhiệm cho địa phương, trên cơ sở dữ liệu liên thông và minh bạch.

Về chính sách, Luật Tài nguyên nước đã quy định ưu đãi đối với hoạt động tuần hoàn, tái sử dụng nước, cụ thể là giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Đây là bước đi quan trọng khuyến khích mô hình sử dụng nước hiệu quả, tuần hoàn, giảm áp lực lên nguồn nước khai thác mới.

An ninh nguồn nước không còn là vấn đề môi trường thuần túy mà đã trở thành yếu tố sống còn cho phát triển bền vững, ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh. Điều đó đòi hỏi sự quyết tâm chính trị cao, sự phối hợp liên ngành chặt chẽ và hành động cụ thể từ mọi cấp, mọi ngành, để đảm bảo nguồn sống cho cả cộng đồng và nâng cao mức bảo đảm an ninh nguồn nước Việt Nam lên nhóm các nước phát triển trên thế giới.

Xem thêm
Đi dọc bản Mông: [Bài 1] 'Cây đại thụ' nơi biên cương

Gồng gánh cả gia đình di cư tìm cơ hội đổi đời, Sùng A Xay đứng vững giữa gian khó, vươn lên như 'cây đại thụ' giữa rừng sâu.