| Hotline: 0983.970.780

Ông tổ nghề thêu

Thứ Năm 10/03/2011 , 10:13 (GMT+7)

Nằm trong phố thị sầm uất giữa đất Hà Thành có một ngôi đình cổ kính, đó là đình Chợ Thêu (cổng đình có 3 chữ Hán “Tú đình thị”, tức đình Chợ Thêu), thờ ông tổ nghề thêu Lê Công Hành. Theo thần phả còn lưu giữ trong đình thì Lê Công Hành tên thật là Trần Quốc Khái, sinh đầu thế kỷ 17 tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ (nay là Hà Nội).

Tổ tiên của Lê Công Hành là người họ Mạc. Khi nhà Mạc bị nhà Lê đánh ạt lên Cao Bằng, ông cùng nhiều người trong họ sợ nhà Lê trả thù nên đã thay tên đổi họ. Chuyện kể rằng ngay từ thời niên thiếu, ông đã nổi tiếng thông minh. Có lần đi đắp đê, vì sức yếu, không vác được hòn đất to, ông bị chôn chân ở đê. Một viên quan đi qua, thấy vậy hỏi duyên cớ, ông khai là học trò sức yếu. Viên quan liền nói: “Nếu là học trò, ta ra một câu vế đối, nếu đối được ta tha cho về”. Ông gật đầu. Viên quan đọc: “Ông quan thị cắm đường cái tiêu trị hồng thủy cho dân được cậy”. Lê Công Hành liền đối lại: “Trai Quất Động thi đỗ Bảng nhãn phù quân vương phí chí mới cam”. Vế trên có các thứ quả gồm thị, (chuối) tiêu, hồng. Vế dưới cũng có tên các quả gồm quất, nhãn, bồ quân. Viên quan vỗ ngực kể công thì cậu học trò cũng hiên ngang bày tỏ chí khí.

Sau khi đỗ đạt làm quan, Lê Công Hành được cử đi sứ sang Trung Quốc. Trên đường đi, bọn quan lại nhà Minh không để cho đoàn sứ bộ đi đường chính, mà lại dẫn đi theo đường tắt, đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn. Ông bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, cái dủi, rồi cho quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng kiếm trái cây để ăn. Qua hết quãng đường rừng đoàn sứ bộ của ta vẫn mạnh khỏe tiến thẳng về kinh đô nhà Minh.

Không biết vì ông đã đối đáp điều gì ngang ngược hay là vì muốn thử trí thông minh của sứ thần Việt Nam, người ra nhốt ông lên trên lầu cao và rút cầu thang không cho chạy xuống. Ở trên lầu suốt cả ngày, ông chẳng thấy ai đem cơm nước đến. Nhìn quanh quẩn trên lầu chỉ thấy một cái bàn thờ, bên cạnh là 2 cái lọng xanh, đỏ trông rất đẹp. Trên cao treo một bức nghi môn thêu rồng phượng. Giữa bệ ban thờ có bày một ông Phật Di lặc bụng to, sơn đen. Trước mặt Phật là một bát hương, một đĩa trầu, một bát nước. Dưới chân bệ có một cái chóe to đựng nước cúng. Nói chung không có một thứ gì để ăn. Để quên cơn đói, ông uống tạm mấy bát nước và thầm nghĩ “chả lẽ uống nước lã mà sống được ư?”. Ông ngắm nhìn Phật Di lặc. Ông Phật bụng to vui đời cũng như đang nhìn ông và cười nói với ông. Ông tò mò đến gần xem ông Phật làm bằng gì, gỗ sơn đen hay đồng đen? Ông lấy móng tay cậy vào lưng Phật thì thấy bật ra một mảng con, rồi lấy tay bóp vụn ra thành bột. Nếm thử bỗng thấy ngòn ngọt như bột bánh khảo. Ông liền cậy một miếng to hơn, ăn vào miệng thấy thơm ngon như bánh. Thế là cứ ngày 3 bữa, ông bẻ chân tay Phật ra ăn, tráng miệng bằng nước uống ở trong chóe. Ở trên lầu buồn quá chẳng có việc gì làm, ông tháo chiếc nghi môn xuống, thấy chỉ mầu, đường thêu rất khéo. Ông cẩn thận gỡ từng sợi chỉ ra xem cách thêu rồng phượng như thế nào. Càng xem càng say mê như đọc được một quyển sách hay. Ông nghĩ bụng phải học cách thêu để về truyền dạy cho bà con. Xem xét tỉ mỉ đường thêu của chiếc nghi môn, ông lại tháo chiếc lọng ra để nghiên cứu kỹ…

Khi ông Phật Di lặc đã bị ăn gần hết, chóe nước uống cũng dần cạn. Lê Công Hành nhìn ra ngoài trời thấy đàn chim bay lượn và thèm muốn cuộc sông tự do. Như sực nhớ ra điều gì, ông chạy vào xem 2 cái lọng. Ông giương lọng và đứng trên bàn thờ cao nhảy xuống sàn lầu. Lọng cản không khí đỡ ông rơi từ từ xuống sàn. Thế là ông nghĩ được cách xuống lầu. Ông ghì chặt 2 cán lọng vào người và nhảy xuống đất. Bọn lính gác ở cổng hoảng hồn thốt lên: “Sứ thần nước Việt biết bay!”. Ít lâu sau ông về nước, bèn cáo quan về quê mở trường dạy nghề thêu cho dân làng Quất Động. Dần dần nghề thêu phát triển sang các làng khác ở tỉnh Hà Đông cũ như: Thọ An (huyện Hoài Đức), Đại Nghĩa (huyện Mỹ Đức), Đào Xá, Tam Xá (huyện Thường Tín)…

Một thời gian sau, ông lên Kinh kỳ dạy nghề thêu ở phố Hàng Lọng. Biết ông có tài thêu, bọn quan lại cho người đến nhờ ông thêu một bức tranh quả dưa, hẹn 5 ngày là phải xong. Ông vốn tính hay rượu nên cứ lần lữa mãi, đến ngày thứ 4 mới thêu xong. Ngày thứ 5, quân lính đến lấy tranh. Bức tranh thêu màu sắc rất đẹp, chỉ tiếc một điều do thêu vội nên là quả dưa bị thiếu cuống. Ông vội thêu cái cuống ngoằn ngoèo như hình con giun đất. Khi xem bọn quan lại tấm tắc khen bức tranh đẹp nhưng không hiểu sao lại có con giun cứ quẩn quanh quả dưa. Ông liền bảo đáng ra thêu con rồng chầu rất đẹp nhưng chỉ có 5 ngày thì chỉ đủ làm con giun thôi. Nếu không thích giun thì đưa tiền để ông thêu bức khác.

Tục truyền khi còn làm sứ thần ở Trung Quốc, Lê Công Hành còn xẻ thịt mình để giấu hạt bắp nếp và đậu xanh mang giống về nước để bà con sản xuất. Nhớ công ơn ấy, trong lễ cúng Tổ nghề, người thợ thêu không bao giờ làm bánh cúng, hoặc chế biến thức ăn cúng giỗ ngài bằng đậu xanh và hạt bắp nếp. Sau khi ông mất dân các làng thêu ra Hà Nội hành nghề và tôn ông làm tổ nghề thêu, thờ ở đình Chợ Thêu. Tương truyền, ngày xưa cứ đến phiên chợ các làng đem sản phẩm thêu ra bày bán và trao đổi tại ngôi đình này, cho nên mới có tên là đình Chợ Thêu.

Xem thêm
728 tỉ đồng nâng cao chất lượng trường dân tộc nội trú, bán trú

Gia Lai dự chi 728 tỉ đồng dùng để đầu tư, nâng cấp và trang bị cơ sở vật chất cho mạng lưới các trường dân tộc nội trú, dân tộc bán trú toàn tỉnh.

Bình luận mới nhất