| Hotline: 0983.970.780

Hai nhà báo quốc tế từng đoạt giải Pulitzer và chuyện tác nghiệp tại Việt Nam

Thứ Sáu 20/06/2025 , 08:50 (GMT+7)

Phóng viên chiến trường Huỳnh Công Út và nữ ký giả người Mỹ Deborah Nelson đều là những nhà báo nổi tiếng, từng được trao giải Pulitzer. Họ có thời gian tác nghiệp tại Việt Nam.

Hành trình điều tra tội ác của lính Mỹ trên đất Việt của nữ ký giả đoạt giải Pulitzer

Deborah Nelson là nữ nhà báo điều tra người Mỹ, giành giải thưởng Pulitzer năm 1997 với loạt bài phơi bày "nạn tham nhũng và bất bình đẳng phổ biến trong chương trình nhà ở được tài trợ bởi chính phủ liên bang dành cho người Mỹ bản địa".

Năm 2005, Deborah Nelson và nhà sử học quân sự Nicholas Turse trở lại Việt Nam để truy tìm những chứng cứ phơi bày tội ác lính Mỹ trong cuộc thảm sát Mỹ Lai gần 50 năm về trước. Sau đó, những bài viết của bà được xuất bản trong cuốn sách “Phía sau cuộc chiến” - câu chuyện đầy đủ nhất về quá trình hai tác giả đi tìm câu trả lời từ những người bị cáo buộc phạm vào tội ác chiến tranh, từ những nhân chứng cáo buộc và cả các quan chức cấp cao đã che giấu sự thật.

“Phía sau tội ác” nhìn thẳng vào những bí mật đen tối nhất về cuộc chiến ở Việt Nam, cũng là lời bào chữa cho những cựu lính Mỹ đã dũng cảm phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa và các nhà hoạt động chính trị phản chiến của thời đại - những người kêu gọi sự cảm thông của cộng đồng với sai lầm trong quá khứ.

Deborah Nelson - nữ ký giả người Mỹ đoạt giải Pulitzer kể chuyện tác nghiệp tại Việt Nam. Ảnh: Kiên Trung.

Deborah Nelson - nữ ký giả người Mỹ đoạt giải Pulitzer kể chuyện tác nghiệp tại Việt Nam. Ảnh: Kiên Trung.

Tháng 2/1968, một đơn vị lính Mỹ ở miền Trung Việt Nam đi càn qua một ngôi làng nhỏ, bắt được 19 người dân không có vũ trang - bao gồm phụ nữ, trẻ em, thiếu niên và một người đàn ông lớn tuổi. Toán lính này nhận được mệnh lệnh “giết sạch những gì di động”. Họ dồn dân làng vào nơi trống trải rồi nã đạn. Sau vụ việc, thanh tra quân đội lấy lời khai có tuyên thệ của hàng tá binh sĩ, thu thập được nhiều chi tiết ám ảnh miêu tả lại cuộc thảm sát. Tuy nhiên, vụ việc bị chìm xuồng, không ai bị kết tội.

Ban tham mưu lục quân Mỹ những năm 1970 đưa vào diện hồ sơ đặc biệt cần lưu trữ bí mật và cất kỹ suốt 30 năm. Hồ sơ bao gồm cả những vụ việc đã được chứng minh liên can đến hơn 300 lời cáo buộc, liên đới đến thành viên mọi sư đoàn lớn từng tham gia cuộc chiến.

Tháng 5/2017, tôi được Deborah Nelson chia sẻ những câu chuyện trong thời gian bà tác nghiệp loạt bài tại Việt Nam. Theo Deborah Nelson, động lực thôi thúc bà đến Việt Nam, đó là SỰ THẬT. Theo quy định của luật pháp tại Mỹ, sau 30 năm, tất cả các hồ sơ mật - những thứ được cất giữ không được phép tiết lộ, sẽ không còn là mật nữa. 

Tiếp cận núi hồ sơ khổng lồ gồm 9.000 tập tài liệu. Tất cả, nó được lưu trữ tại một căn phòng khổng lồ như một thư viện lớn. Để xử lý núi thông tin này, Deborah phân loại dữ liệu. Từ bảng dữ liệu, bà lên kế hoạch phải trực tiếp gặp những cựu binh tham gia cuộc thảm sát - những người có tội đối với những nạn nhân.

Một nhóm đối tượng quan trọng khác, đó là những nhân chứng, người nhà của các nạn nhân bị thảm sát. Bà phải tới Việt Nam gặp những người mà bà chưa từng gặp, tìm vùng đất mà chưa từng đặt chân tới.

Mỹ Lai - một thôn nhỏ của làng Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi. Vụ thảm sát ngày 16/3/1968 trong Chiến tranh Việt Nam, cướp đi sinh mạng của 503 thường dân. Tuy nhiên, báo cáo của quân đội Mỹ chỉ là 347 người.

Tháng 5/2017, Deborah Nelson sang Việt Nam để chia sẻ với các nhà báo trẻ về kỹ năng báo chí điều tra do Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức. Ảnh: HNBVN.

Tháng 5/2017, Deborah Nelson sang Việt Nam để chia sẻ với các nhà báo trẻ về kỹ năng báo chí điều tra do Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức. Ảnh: HNBVN.

Nelson nói: “Tôi tôn trọng câu chuyện của những người được hỏi. Tôi gọi đó là tính riêng tư của thông tin. Nếu như, câu chuyện mà họ kể cho tôi nhưng họ không muốn đưa thông tin thì tôi sẽ không đăng tải. 

Hãy lắng nghe họ chứ đừng có chỉ hỏi, cho họ nói điều gì là quan trọng chứ không phải chúng ta muốn biết điều chúng ta muốn; họ khóc hay gì đó, hãy cứ để họ làm như vậy, để họ tự thể hiện cảm xúc của mình, bởi vì đôi khi họ khóc mà chúng ta dừng cuộc phỏng vấn lại ngang chừng thì điều đó còn tồi tệ hơn… Hãy cho họ quyền thể hiện cảm xúc của mình. Sự đồng cảm là điều quan trọng”.

Qua người phiên dịch, bà phỏng vấn một người mẹ có cậu con trai là cậu bé chăn vịt bị giết trong cuộc thảm sát đó, và xác định được ngôi làng nhỏ bị thảm sát nằm ngay ở khu chiến lược của quân đội Mỹ. Một toán lính Mỹ gồm 3 người đã tự tổ chức một “cuộc thi” xem ai có thể giết hại được nhiều người nhất. Nhóm này sau đó đã đi ra một ngôi làng, và gặp hai đứa trẻ đang chăn vịt. Họ bắt hai cậu bé này nằm cạnh nhau và bắn chết, sau đấy thì đặt lựu đạn, kéo kíp lựu đạn cho lựu đạn nổ…

Người mẹ lúc ấy đang ở ngoài chợ, một người cùng làng chứng kiến sự việc đã báo cho bà này. Người mẹ nghe chuyện đã chạy ra cánh đồng để tìm con trai của mình. Trong hồ sơ ghi như vậy, và tôi đã về để tìm gặp bà…

Nelson và bức ảnh tư liệu về hai mẹ con người phụ nữ - nhân chứng của cuộc thảm sát mà bà đang đi tìm sự thật. Ảnh: Kiên Trung.

Nelson và bức ảnh tư liệu về hai mẹ con người phụ nữ - nhân chứng của cuộc thảm sát mà bà đang đi tìm sự thật. Ảnh: Kiên Trung.

Cuộc phỏng vấn dài, bà ấy có căm phẫn không, có khóc không, có muốn biết tên người đã giết con trai mình? Người mẹ đó không khóc. Tôi bắt đầu câu chuyện bằng cách quay trở lại thời điểm khi sự việc chưa xảy ra, như một cách để cho người mẹ thời gian.

Sau đó tôi hỏi chuyện gì xảy ra, tất nhiên, những câu hỏi của tôi không có gì đặc biệt. Gần đến lúc người mẹ nói về phần con của mình bị giết như thế nào, người mẹ nói về chi tiết cái đầu của những con vịt bị lưu đạn nổ, bắn tung lên là bị mắc ở trên những cành cây…

Người mẹ đau khổ nói, khi bà chạy ra, thấy ba thi thể không nguyên vẹn trên mặt đất. Tất cả, nó chỉ là những mẩu thi thể và rơi vãi khắp nơi. Bà mẹ kể đứt đoạn, câu chuyện lẫn lộn không theo trật tự. Tôi biết, bà đang bối rối vì căm phẫn. Bà ấy nói, lúc ấy, gần đó có một cây mít, và không biết vì lý do gì, bà mẹ đã chạy về phía gốc mít ấy.

"Không chỉ mất người con trong buổi sáng hôm đó, bà này sau đó cũng có một người con gái khác bị chết trong 1 vụ nổ khác. Bà ấy đã đi đến tột cùng của sự đau khổ rồi”,  Deborah thoáng rùng mình.

“Mở lại một câu chuyện đau buồn của một gia đình, tôi nghĩ rằng, gia đình họ chịu đựng được thì không có lý do chúng tôi lại không chịu đựng được. Những ngày tháng ở Việt Nam để điều tra, xác minh những thông tin để tìm những câu trả lời, tôi bị ám ảnh bởi tất cả những con người mình gặp, những câu chuyện mình nghe. Và hơn hết, đó là sự ám ảnh từ việc những lính Mỹ giết người vô cớ”, hai bàn tay của Deborah đan vào nhau khi nhắc lại câu chuyện.

Deborah Nelson và các đồng nghiệp trẻ Việt Nam. Ảnh: HNBVN.

Deborah Nelson và các đồng nghiệp trẻ Việt Nam. Ảnh: HNBVN.

Nữ ký giả Deborah Nelson sinh năm 1953 tại Grayslake, bang Illinois, Mỹ. Bà tốt nghiệp đại học Northern Illinois ngành báo chí và có bằng tiến sĩ luật của trường Đại học DePaul.

Hiện bà là giáo sư thỉnh giảng tại trường Báo chí Philip Merrill, thuộc Đại học Maryland. Trong hơn 30 năm làm báo, bà làm việc cho các tờ danh tiếng như Los Angeles Times, Washington Post, Seattle TimesChicago Sun-Time với rất nhiều phóng sự điều tra sắc sảo gây được tiếng vang trong dư luận. Bà là thành viên ban lãnh đạo Quỹ dành cho báo chí điều tra (FIJ), thành viên ban cố vấn chương trình phóng sự điều tra.

Năm 1997, bà đoạt giải thưởng Pulitzer ở thể loại phóng sự điều tra cho loạt bài đăng trên tờ Seattle Times về những sai phạm trong chương trình xây dựng nhà ở cho người Ấn của chính quyền bang. Sau đó, bà phụ trách dự án báo chí dành cho các tác giả đoạt giải Pulitzer các năm 2001 và 2002. Năm 2006, bà và nhà nghiên cứu quân sự Nicholas Turse là đồng tác giả của series phóng sự điều tra về tội ác chiến tranh của Mỹ đăng trên tờ Los Angeles Times.

“Em bé Napalm” và câu chuyện của phóng viên chiến trường Nick Út

Khi bức ảnh “Em bé Napalm” chuẩn bị bước sang năm thứ 52 kể từ khi được trao giải thưởng Pulitzer, tác giả của bức ảnh, Huỳnh Công Út (Nick Út) tiếp nhận một thông tin không mấy vui vẻ: World Press Photo ngừng ghi nhận tác quyền của ông đối với tác phẩm ảnh này.

Trong lúc nhiều đồng nghiệp của ông và nhiều nhà báo đã đoạt các giải thưởng báo chí danh giá cùng ký tên đề nghị Hội đồng Giám sát và Ủy ban Cố vấn World Press Photo xem xét lại quyết định, khôi phục ghi nhận quyền tác giả vốn đã được duy trì suốt hơn 50 năm, cho đến khi có bằng chứng ngược lại, thì Nick Út chọn im lặng.

Nick Út và bức ảnh 'Em bé Napalm. Ảnh Tư liệu.

Nick Út và bức ảnh "Em bé Napalm. Ảnh Tư liệu.

Nhắc lại câu chuyện này không để tranh luận, bởi đó là câu chuyện lịch sử đang có nhiều ý kiến trái chiều. Câu chuyện tác nghiệp của một phóng viên chiến trường - Nick Út, trong bối cảnh chiến tranh, và sự dày vò của những người cầm bút, cầm máy… đứng trước lằn ranh: tác nghiệp hay không tác nghiệp khi đứng trước khoảnh khắc sự sống và cái chết của nhân vật trong một câu chuyện báo chí.

Mùa hè tháng 5/2007, Nick Út về Việt Nam tham dự khóa đào tạo nghiệp vụ ảnh báo chí do Thông tấn xã Việt Nam tổ chức. Ông kể câu chuyện tác nghiệp gần 40 năm trước.

Buổi sáng 9/6/1972, tại thị trấn Trảng Bàng - Tây Ninh, phóng viên trẻ AP Huỳnh Công Út (Nick Út) cùng một vài đồng nghiệp có mặt tại chiến trường. Anh tác nghiệp về cuộc chiến tranh của Mỹ đang xảy ra trên quê hương mình, dưới vai trò là một phóng viên AP.

Khi công việc đã tạm kết thúc, chuẩn bị ra về, bỗng Nick Út thấy tiếng phi cơ gầm lên từ cuối chân trời. Rồi như một tia chớp, 2 chiếc phi cơ lao xuống, 4 quả bom bị cắt xuống khoảng đất xám xịt. Theo phản xạ và kinh nghiệm, anh nhận định: Chắc chắn máy bay sẽ rót bom xuống Trảng Bàng.

Anh chĩa ống kính về phía 4 quả bom bị cắt. Theo tiếng nổ như xé, nóc nhà thờ Cao Đài biến thành một cột khói. Trong làn khói bom mù mịt, anh nghe thấy những tiếng la hét hoảng loạn. Một đám người chạy ra từ đám khói, rồi tiếng la hét của một bé gái: “Nóng quá, nóng quá, con chết mất chú ơi…”. Theo phản xạ, anh bấm máy. Một bé gái trần truồng chạy qua ống kính của anh, rồi ngã nhào trên cánh tay Nick Út…

Về tòa soạn ở Sài Gòn. Đại diện AP tại Việt Nam là một người Nhật, Ishia Jackson, rửa 8 cuộn phim của Nick Út, rồi Jackson in thành file. Đưa file ảnh lên phía sáng để nhìn rõ, Jackson hỏi Út: “Tại sao con bé này lại ở truồng?”.

Nghe Út kể, Jackson rùng mình. Ngay lập tức, vị đại diện của AP rửa ảnh rồi gửi sang Úc cho một editor cấp trên của mình.

Nick Út và 'em bé Napalm Kim Phúc' trong một sự kiện báo chí. Ảnh: AP.

Nick Út và "em bé Napalm Kim Phúc" trong một sự kiện báo chí. Ảnh: AP.

“Ảnh này không sử dụng được, vì nhân vật ở truồng, rất gây phản cảm!”, câu trả lời từ bên nước Úc. Hai lãnh đạo của Út bắt đầu gây gổ. Cuối cùng, bức hình bé Kim Phúc bị phỏng nặng, quần áo cháy sém vẫn được gửi về trụ sở của AP tại Mỹ, sau một thời gian chờ đợi để truyền ảnh gần 1 giờ đồng hồ, và đi bằng đường vòng từ Sài Gòn - Tokyo; rồi từ Tokyo sang Washington.

Sáng hôm sau, AP đăng tải bức hình lên trang nhất. Mấy giờ sau, đồng loạt tất cả các tờ báo của các hãng thông tấn khác cũng đều sử dụng bức hình của Nick Út.

Năm 1973, Nick Út được nhận giải thưởng quốc tế cao quý về ảnh - giải thưởng Pulitzer - cho bức hình “Em bé Napalm”.

Chiến tranh kết thúc. Nick Út tiếp tục làm việc cho AP, tại Mỹ, cho tới khi nghỉ hưu. Cho tới bây giờ, ông vẫn ám ảnh bởi câu chuyện lương tâm, ám ảnh về câu hỏi nhức nhối: đạo đức nghề nghiệp - khi giơ máy chụp nạn nhân của quả bom Napalm hay bỏ máy chạy tới giúp đỡ cô bé, chứ ông hoàn toàn không quan tâm tới câu chuyện tác quyền ảnh của mình vừa xảy ra mới đây!

"Em bé Napalm" - bức ảnh ghi lại cảnh cô bé Kim Phúc ở Tây Ninh bị trúng bom napalm năm 1972. Hãng thông tấn AP ghi tên người chụp là nhiếp ảnh gia Nick Út. Năm 1973, ảnh được trao giải thưởng báo chí Pulitzer.

Đầu năm, phim tài liệu "The Stringer" của đạo diễn người Mỹ gốc Việt Bảo Nguyễn đưa nghi vấn tác giả thực sự của bức ảnh là Nguyễn Thành Nghệ - người được cho là xuất hiện ở hiện trường nơi chụp ảnh. World Press Photo (Giải Ảnh báo chí thế giới) quyết định tạm ngừng công nhận Nick Út là người chụp "Em bé Napalm" để xác minh lại sự việc.

Sáng 30/5/2025, tôi nhắn tin hỏi thăm Nick Út. Ông cho biết mới cùng các đồng nghiệp quốc tế có mặt tại Việt Nam hơn 1 tháng trời tham dự sự kiện kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Ông vừa trở lại Mỹ, mang theo những nỗi niềm về câu chuyện bị tạm dừng ghi nhận tác quyền bức ảnh “Em bé Napalm”.

Nhưng, như một thói quen cũ, ông vẫn chọn im lặng, trong khi các đồng nghiệp của ông thì lên tiếng!

Xem thêm
Nghệ An mở đợt cao điểm '90 ngày, đêm' làm sạch dữ liệu hôn nhân

UBND tỉnh Nghệ An vừa ban hành Kế hoạch thực hiện mở đợt cao điểm '90 ngày, đêm' làm sạch dữ liệu hôn nhân và cắt giảm thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân.

Bình luận mới nhất