Nhà có "một người rưỡi" lao động
Anh Vì Văn Tuấn - người dân tộc Xinh Mun ở bản Nà Nhụng xã Phiêng Pằn (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) vồn vã mời tôi khi gặp lại tác giả của loạt bài “Những hạt ngô máu” (đoạt Giải B Giải Báo chí quốc gia năm 2017) sau 9 năm xa cách. Hôm nay, vợ chồng anh đi trồng ngô trên nương về muộn, tối mịt rồi mới ngồi làm cơm bên bếp lửa ở góc nhà sàn. Chẳng mấy chốc mà mùi xôi thơm hương cốm, mùi thịt sốt cà chua thơm ngậy bốc lên khiến tì vị của tôi như được đánh thức. Xưa, có khi cả tháng gia đình anh mới biết đến mùi thịt; còn giờ đây thì vài bữa lại một lần. Tôi uống một chén rượu nồng mừng cho anh - một người từng sống cuộc đời chẳng khác nào A Phủ của thời hiện đại.

Nhiều gia đình ở xã Phiêng Pằn chuyển đổi trồng ngô sang trồng cà phê, cho thu nhập khá. Ảnh: Dương Đình Tường.
Đó là một tháng 9 nhiều mưa năm 2016. Khi dự hội nghị đầu bờ của một công ty ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, tôi nghe phong thanh về chuyện nhiều nông dân mua ngô giống của chủ đầu tư bị tính lãi cao, không trả được, phải gán cả đất, nên tôi mượn xe máy, khoác áo mưa đi thực tế ở hai xã Chiềng Lương và Phiêng Pằn. Cơn bão số 3 năm đó khiến cho gần 10km đường đất từ trung tâm Phiêng Pằn - một xã vùng biên về bản Nà Nhụng - trở thành một hành trình đày ải, khi tôi phải len lỏi qua những cái cây đổ rạp, những tảng đá to như cái bàn, cái ghế lăn lông lốc.
Nhiều chỗ không còn dấu vết gì của con đường nữa, vừa đi tôi phải vừa hỏi. Đến bản Kết Nà thì xe máy cũng không đi nổi, đành phải gửi lại một nhà dân rồi dò dẫm đi bộ. Tôi cố gắng đặt chân vào đúng vết chân người đã đi trước, bởi chỉ cần lệch một chút là có thể bùn lầy hay một tảng đá mất chân kéo mình rơi xuống vực thẳm.
Sau bữa trưa muộn bằng chỗ xôi còn lại trong hông của nhà trưởng bản hồi ấy là Lò Văn Thu, anh dẫn tôi đi thực tế. Qua những khe nứa của một túp lều rách nát tựa cái chuồng trâu, tôi nghe thấy tiếng nhạc rộn ràng nên tò mò ngó vào. Một người đàn ông tàn tật bị liệt nửa người, chỉ lê lết được bằng tay đang mơ màng với những âm thanh cất lên từ cái loa nhỏ được đổi bằng cả một nương ngô lớn (tương đương với 1ha đất trở lên), mỗi vụ gieo được vài chục kg giống.

Bữa ăn nhà anh Vì Văn Tuấn nay đã có thịt. Ảnh: Dương Đình Tường.
Giống như bao gia đình khác trong bản, mấy năm trước, anh Vì Văn Tuấn hồn nhiên vay 20kg ngô giống, 1 tạ gạo của một chủ đầu tư mà không hề biết đầu của mình sắp bị đưa vào cái thòng lọng nặng lãi đã được giăng sẵn. Giá thị trường ngô giống mua trả thẳng 70.000đ/kg nhưng mua nợ, chủ đầu tư tính lên 130.000đ/kg, không trả nổi, vụ sau tính lên 180.000 - 200.000đ/kg, vụ sau nữa lại tính lên tiếp.
Ngược lại, giá bán ngô theo thị trường 4.000đ/kg nhưng bán trả nợ chỉ được 2.500 - 3.000đ/kg mà không trả cũng không xong, thậm chí đến vụ thu hoạch, chủ đầu tư còn cử người tới quay phim, chụp ảnh những nông dân nào dám bớt lại 1-2 bao ngô để nuôi gà, nuôi lợn. Những con gà nhỏ chưa ăn được sắn băm phải chết đói, còn gà lớn ăn được sắn băm tuy không chết nhưng chậm lớn, xù lông bởi thiếu ngô.
Đã nghèo lại mắc cái eo. Vụ ngô năm đó mất mùa, anh Tuấn thì bị tai biến thành ra chỉ có "một người rưỡi" lao động, gồm vợ anh và nửa người còn khỏe của anh. Gia cảnh gieo neo quá nên thằng con trai mới 13 tuổi của họ phải nghỉ học làm phu hồ tứ xứ. Thương người bố tàn tật, suốt ngày ngồi ở nhà như con rùa bị buộc chân nơi xó cửa, nó dành dụm 450.000đ mua một cái loa để bố nghe cho đỡ buồn. Đó là tài sản lớn nhất trong gia đình.

Anh Vì Văn Tuấn bên những cuốn sổ đỏ. Ảnh: Dương Đình Tường.
Một buổi chủ đầu tư đến. Sau khi ngó tới, ngó lui quanh căn lều tồi tàn không thấy cái gì đáng giá, mắt ông bỗng sáng lên khi dừng lại ở cái loa. Vừa đe dọa vừa dụ dỗ, ông bảo: “Trong nhà mày không có gì được tiền thì cho chú xin cái loa này nhé?”. Vừa nói tay ông vừa giơ tay định lấy. Nghe thấy thế, anh Tuấn sợ quá, cứ bò quanh lều, vừa lạy vừa kêu khóc: “Cháu xin chú, cháu xin chú đừng lấy cái loa này, nó là của con cháu mua bố nghe cho đỡ buồn vì đau chân…”. Chân chủ nợ đi đến đâu thì tay của anh lết đến, bám chặt vào đó mà van xin. Cuối cùng chủ đầu tư bảo: “Được rồi, vậy mày điểm chỉ vào tờ giấy gán đất đi, tao đã làm sẵn ở đây rồi”. Anh Tuấn vui vẻ đồng ý.
Nhiều người trong bản Nà Nhụng này cũng phải điểm chỉ gán đất như anh. Vài tuần họ không biết đến mùi thịt, Tết họ không biết đến bộ quần áo mới, bị bệnh họ không có tiền đi viện mà chỉ mời thầy cúng đến giết gà để đuổi ma.
Hàng ngàn hộ được trả lại đất
Theo thống kê, có 26 hộ của bản Nà Nhụng, hơn 260 hộ của xã Phiêng Pằn, khoảng ngàn hộ của các xã khác trên địa bàn huyện Mai Sơn hồi ấy phải gán đất cho các chủ đầu tư nặng lãi. Sau loạt bài “Những hạt ngô máu” được đăng tải trên Báo Nông nghiệp Việt Nam (Báo Nông nghiệp và Môi trường hiện nay), dư luận cả nước dậy sóng vì phẫn nộ. Tỉnh Sơn La đã chỉ đạo huyện Mai Sơn lập tức phải tìm cách tháo gỡ cho dân.

Ông Lù A Dủa, Bí thư xã Phiêng Pằn, cho biết: "Sau loạt bài, tỉnh, huyện và đặc biệt là xã đã khẩn trương vào cuộc". Ảnh: Dương Đình Tường.
Ông Lù A Dủa, Bí thư xã Phiêng Pằn, chính là Chủ tịch xã hồi tôi gặp 9 năm về trước. Hỏi về tác động của loạt bài năm nào, anh hồ hởi trả lời, rằng sau đó tỉnh, huyện và đặc biệt là xã đã khẩn trương vào cuộc.
Qua rà soát thì hồi ấy Phiêng Pằn có hơn 260 hộ phải gán đất cho các chủ đầu tư. Xã lập các đoàn công tác đến các bản tuyên truyền cho người dân, chủ yếu là hộ nghèo, hộ cận nghèo hiểu: phải tự làm, tự vươn lên chứ không trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, không gán đất, cho chủ đầu tư thuê đất rồi lại làm thuê trên chính mảnh đất của mình. Xã tổ chức ký cam kết giữa các chủ đầu tư và bà con với nội dung chủ đầu tư trả lại đất cho dân để họ trả gốc dần, không tính lãi nữa.
Những hỗ trợ của Nhà nước trong các chương trình mục tiêu quốc gia giúp bà con chuyển đổi dần cơ cấu cây trồng, từ ngô sang 655ha mía, 338ha cà phê. Ngân hàng chính sách cho bà con vay vốn để mua giống, phân bón, không vay của chủ đầu tư nặng lãi như trước nữa. Qua nhiều năm dìu dắt dần dần như thế, người dân cũng hiểu rằng, phải tự mình vươn lên trong sản xuất, phải chăm lo cho con cái học hành như các dân tộc khác. 9 năm trước, tỷ lệ hộ nghèo của xã Phiêng Pằn là hơn 60%, thì nay, chỉ còn hơn 20%...

Ngoài trồng trọt, bà con còn phát triển chăn nuôi. Ảnh: Dương Đình Tường.
Như ở Nà Nhụng, đoàn công tác của xã họp 7-8 cuộc tại nhà văn hóa bản, tuyên truyền vận động bà con không mua nợ của chủ đầu tư để bị gán đất, lấy tài sản; phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Bà con nào không biết tiếng Kinh thì đã có cán bộ bản phiên dịch giúp. Nợ được khoanh lại, phần nặng lãi bị bóc ra, đất trả lại cho dân. Sau 2 năm đi làm thuê, cuối cùng, thằng con trai anh Vì Văn Tuấn cũng trả đủ 15 triệu đồng nợ thay cho bố. Anh bảo với chủ đầu tư: “Hết nợ rồi, chú xé tờ giấy nợ cho cháu đi”.
Hôm đó, gia đình anh thịt gà mừng hết nợ. Thằng em trai mang cái điện thoại thông minh đến đưa cho anh xem các bài báo đăng trên Báo Nông nghiệp Việt Nam (nay là Báo Nông nghiệp và Môi trường) nhưng vì không biết chữ nên anh chỉ biết nhìn mỗi ảnh. Anh kể, nhà chỉ có "một người rưỡi" lao động gồm vợ và nửa người khỏe của mình nên vẫn còn nghèo, tuy nhiên được cái tự chủ trên mảnh đất được trả lại.
Mỗi vụ họ gieo 20kg ngô giống, thu được 5-6 tấn, sau khi bán trả hết tiền phân, tiền giống, còn lại khoảng 12 triệu đồng. Những lúc nông nhàn, vợ anh đi làm thuê, được bao nhiêu ngoài trang trải sinh hoạt còn mua giống, phân cho vụ tới, chứ không dám mua nợ nữa: “Tôi đã sợ đến già rồi, sợ con cái mình sau không có đất thì chết. Đời mình đã khổ rồi, đời con, đời cháu không được khổ nữa”.
Trong cuộc gặp gỡ tình cờ ở nhà văn hóa để giải quyết một cuộc tranh chấp, khi biết tôi là tác giả của những bài báo năm ấy, ông Lò Văn Pản - Chi hội trưởng Chi hội người cao tuổi bản Nà Nhụng - bắt tay thật chặt rồi dắt về ngôi nhà mới của mình, gọt dưa mời. Miếng dưa thật ngọt, giống như đoạn đời hiện tại của ông chứ không còn cay đắng như trước nữa.

Ông Lò Văn Pản bên ngôi nhà mới. Ảnh: Dương Đình Tường.
Ông kể, xưa mình là đầu mối tại bản của một chủ đầu tư với nhiệm vụ giao phân, giống, gạo và quản lý nợ của khoảng 20 hộ. Toàn cho vay kiểu lãi mẹ đẻ lãi con nhưng vì không biết chữ hoặc nhận thức kém nên người dân vẫn phải chịu. Như ông Vì Văn Phương, đầu năm vay 1 bao gạo 50kg tính 1 triệu đồng thì cuối năm tính ra 2 tấn ngô non là 1,5 triệu đồng trong khi giá ngô thị trường phải 2.000đ/kg. Cứ thế, chỉ trong 4 năm, cả gốc lẫn lãi ông Phương bị tính lên 10 triệu đồng.
Sau 6 năm làm đầu mối như thế, quản lý 67 triệu đồng nợ khó trả của dân bản, không trả được, ông Pản bị chủ đầu tư tính lên 130 triệu đồng và phải gán mảnh nương gieo mỗi vụ 70kg ngô giống của gia đình (sau này khi đòi được đất để trồng mía, người ta đo giúp ông được 2,4ha) trong 8 năm. Nhiều bà con ít đất, thời gian gán nợ còn dài hơn, 10-20 năm.
“Sau khi có bài báo đăng, khoảng 20 hộ trong bản sắp phải gán đất đã dừng lại, còn những hộ đã gán thì được khoanh khoản lãi cao, chỉ phải trả phần nợ gốc. Tôi trả đến năm 2016 thì hết nợ”, ông Pản thông tin. Hiện ông đang sống cùng con trai. Tháng 4 vừa rồi, nó được Nhà nước hỗ trợ 60 triệu đồng, bỏ thêm 70 triệu để xóa nhà tạm, đồng thời xóa luôn hộ nghèo bởi gia đình đã có 2 xe máy, có nhà kiên cố, có lao động.
Với 2,4ha đất được trả lại, ông trồng mía, mỗi năm thu 120-130 tấn, lãi được 40-50 triệu. Ngoài ra, ông còn nuôi trâu, bò, dê, mỗi năm bán được lãi 20-30 triệu nữa. Thu nhập đó vẫn còn khiêm tốn khi chia cho 4 lao động, gồm hai vợ chồng ông Pản và hai vợ chồng trẻ (là con ông). Nhưng so với trước đây, dù có nằm mơ họ cũng không dám nghĩ tới.
“Tôi vẫn còn đang nợ ngân hàng 100 triệu đồng vì đào ao và trồng 200 gốc nhãn, 40 gốc xoài, 4.000 cây cà phê. Chỉ vài năm nữa thôi là chúng cho thu hoạch”, ông tâm sự.
Nguyện vọng của một bản vùng biên
Tối hôm ấy, Lò Văn Thu nhất định giữ tôi lại nhà. Sau khi sắp sửa cái giường và bộ chăn chiếu đẹp nhất cho tôi xong thì anh đeo đèn pin lên trại trên núi bắt gà đãi khách, còn vợ anh thì đồ xôi, làm canh. Người Xinh Mun ăn xôi ngày 3 bữa, 365/365 ngày của năm.
Anh Thu nay toàn tâm, toàn ý cho phát triển kinh tế. Trên diện tích đất nhà mình, năm nay anh mới trồng 2.000 cây cà phê nên chỉ còn gieo 10kg ngô giống. Ước mơ làm giàu luôn cháy bỏng trong huyết quản của anh cũng như cánh thanh niên bản nhưng đổi thay vẫn còn chậm, mà lý do chính bởi đường xấu, bởi nhận thức kém, bởi sự thiếu vốn.

Đường vào Nà Nhụng vẫn chỉ là đất đá gập ghềnh. Ảnh: Dương Đình Tường.
Con đường hơn 8km từ trung tâm xã vào bản vẫn chỉ là đất đá như hồi tôi vào 9 năm về trước, với hàng trăm “ổ trâu” mà mỗi mùa mưa phải huy động người cả bản ra sửa 4-5 lần. Cũng con đường ấy, sau mỗi cơn mưa, từ giống như một lòng suối cạn biến thành một dòng suối thực sự. Bởi con đường gập ghềnh ấy mà chanh leo loại VIP từ Nà Nhụng “bò” ra được trung tâm xã đã bị dập nát thành chanh leo loại, bao cà phê trên chiếc xe máy thồ “bò” ra được trung tâm xã bán có khi còn không đủ tiền đổ xăng, sửa chữa xe. Bởi con đường gập ghềnh ấy mà tạ xi măng “bò” vào đến bản đắt hơn 50.000đ, một cân lợn hơi “bò” ra khỏi bản rẻ hơn 5.000đ.
Đang mặn chuyện thì sấm đì đùng, chớp rạch ngang sườn đồi, mưa ào ào xuống tấm lợp nhà kêu như ngô rang trong chảo. Cũng vừa hay cơm, gà luộc và canh đã xong. Bữa ấy có mặt cả Lò Văn Chiêu - Bí thư kiêm Trưởng bản Nà Nhụng. Anh cho biết, bản 100% người dân tộc Xinh Mun với 155 hộ thì 38 hộ nghèo, 16 hộ cận nghèo.
Ngô vẫn là cây chủ lực với tổng diện tích chừng 200ha nhưng gần đây bà con không độc canh như trước mà đã chuyển đổi sang 30ha mía, 20ha cà phê, ai trồng sớm đã cho thu, đã thoát nghèo rồi. Như cây mía có các hộ Vì Văn Thắng, Lò Văn Pín, Lò Văn Pản thu 30-40 tấn mía, mỗi vụ bán được 80-100 triệu đồng. Như cây cà phê có các hộ Lò Văn Lường, Lò Văn Sơn, Lò Văn Sĩ thu 5-6 tấn hạt, mỗi vụ bán được trên dưới 100 triệu đồng. Ngoài ra, bà con còn phát triển chăn nuôi như các hộ Vì Văn Hường có 12 con bò và 12 con dê, Lò Văn Lường có 9 con bò, Lò Văn Sơn có 8 con bò…
Tuy nhiên, nếu con đường từ xã vào bản được cứng hóa thì việc thoát nghèo, làm giàu của người dân sẽ dễ hơn rất nhiều. Đó là mong mỏi của bà con bản Nà Nhụng muốn gửi gắm qua Báo Nông nghiệp và Môi trường.
* Đạy dọn: Cảm ơn.