Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ tính đội quân xe đạp thồ đã đông hơn cả số quân chủ lực, là chuyện chưa từng có trong chiến tranh thế giới. Những “chị gánh anh thồ” chủ yếu người xứ Thanh cứ đêm đi ngày nghỉ, người sau bám gót người trước một cách mải miết đến ngay cả tin chiến thắng họ cũng không hay biết…
Phục chế xe đạp thồ của Trịnh Ngọc tặng Bảo tàng Điện Biên Phủ Trao đổi với NNVN, bà Hoàng Thị Chiến, GĐ Bảo tàng Thanh Hoá cho biết: Nhân kỷ niệm 55 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, UBND tỉnh Thanh Hoá sẽ trao tặng một số tư liệu, hiện vật tiêu biểu cho bảo tàng Điện Biên Phủ như quân tư trang bộ đội, dân công, lá cờ Bác Hồ tặng dân công Thanh Hoá, đôi bồ nan của bà Hà Thị Đón, xe đạp thồ của ông Trịnh Ngọc…Theo bà Chiến, từ cuối năm 2008 các cán bộ Bảo tàng đã phải lặn lội đi Quảng Xương, Vĩnh Lộc (Thanh Hoá) vào Hà Tĩnh sưu tầm hiện vật, sau đó về lắp ghép các chi tiết, phục chế nguyên bản xe của ông Trịnh Ngọc.
Đi dân công tuổi trăng tròn
Vâng, những “chị gánh anh thồ” hơn nửa thế kỷ trước, nay đã bước vào tuổi cổ lai hy. Khi chúng tôi gợi hỏi chuyện cũ, bà Vũ Thị Bảo (77 tuổi) ở phường Hàm Rồng (TP Thanh Hoá) xuề xòa: “Ôi dào, ở đất quê Thanh, lớp tuổi tôi ai chẳng biết chuyện dân công. Nam đi xe thồ, nữ đi gánh gạo, đường ra mặt trận đông như ngày hội; cả làng, cả xã chỉ còn người già, con nít ở lại. Ngay như tôi tham gia bao nhiêu đợt dân công cũng không nhớ hết. Khăn áo ra đi, dăm ba tháng lại trở về cấy, cày chờ đợt sau lên đường…".
Đi dân công hành trang là chiếc đòn gánh, đôi bồ, một chai thuỷ tinh cùng ít dầu hỏa làm đèn, ít moi khô, muối vừng, sang hơn thì tí mắm cá chình, tí ruốc là đủ. Ngày nghỉ bìa rừng, tránh máy bay địch, đêm đi. Mỗi người kĩu kịt vài chục cân gạo chuyển từng chặng ra mặt trận. Và đúng, cả xứ Thanh, cả dân tộc hướng lên chiến trường Điện Biên Phủ với khí thế ấy, chứ không riêng bà Bảo.
Bà Bảo chậm rãi kể tiếp: “Tôi đi dân công khi tuổi tròn 17. Lên đến Hoà Bình, nơi rừng thiêng nước độc, gặp phải con đỉa, con vắt cũng rú lên vì sợ hãi, sau dần thành quen. Có lần, nữ dân công vào rừng kiếm củi bị hổ vồ mất. Nghỉ trong lán trại giữa màn đêm thấy mắt cọp sáng xanh lét như viên ngọc mà khiếp. Ngay cả ban ngày khi chị em ngủ phải nhờ đàn ông nằm ngoài canh chừng, vì sợ ông ba mươi đói bụng làm càn. Nữ dân công đang tuổi ăn tuổi lớn nên thèm ngủ lắm, vừa gánh vừa ngủ gật, có khi ngã dúi dụi mới tỉnh cơn. Gánh gạo nuôi quân suốt 3 tháng ròng cho đến khi chiến thắng. Về quê, tôi được Ủy ban Hành chính tỉnh cấp giấy chứng nhận “Chiến sĩ dân công vẻ vang mặt trận Điện Biên Phủ”...
“Bom đạn của máy bay địch, gian khổ của đường dài, không ngăn cản được bước tiến của các đoàn dân công, các đoàn vận tải trên khắp các đường lớn, đường con, dòng sông, dòng suối, ngày đêm đưa lương thực, đạn dược đến Điện Biên Phủ cho bộ đội đánh giặc. Biết bao nhiêu tấm gương hy sinh chiến đấu, vượt qua gian khổ, khắc phục khó khăn đáng kính phục đã xuất hiện...Những đoàn xe đạp thồ đã nâng mức trọng tải mỗi xe lên tới hàng tạ, có khi đến ba tạ”... (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Hồi ký Điện Biên Phủ) Năm 1957, trong dịp vào thăm Thanh Hóa, Hồ Chủ tịch đã biểu dương: “Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Thanh Hóa đã góp 12 vạn dân công vận chuyển tải lương thực cho bộ đội. Bây giờ tiếng nói Việt Nam đi đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đi đến đó, tiếng Điện Biên Phủ đi đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”. "May mắn cho đại đội là đi thồ đêm được trang bị đèn dầu làm bằng ống luồng có cửa khép. Đèn treo trên cổ-phoóc xe thồ, gặp máy bay địch thì khép cánh đèn lại. Tối hôm đó trên đường từ Sơn La về Hòa Bình lấy lương thực lên tiền tuyến, mới nghe tin bộ đội ta chiến thắng, cả đoàn vui mừng khôn xiết, nhanh chân chạy về quê như đàn ong vỡ tổ” (Ông Trần Khôi, nguyên chính trị viên Đại đội dân công xe thồ hoả tuyến TP Thanh Hoá)
Bà Bảo cho chúng tôi xem tờ giấy nhỏ chưa đầy nửa khổ A4, in ấn thủ công, mực phai, giấy ố cùng năm tháng. Nguyện vọng của bà là được cấp lại tờ giấy chứng nhận cho đàng hoàng hơn. Bởi với bà và hàng ngàn người trong đội quân xe thồ ngày ấy, tờ giấy là thứ kỷ vật thiêng liêng, họ có thể mất nhà cửa, ruộng vườn chứ không thể mất nó.
Chúng tôi sang nhà ông Thiều Quang Mộc ở đầu cầu Sâng, phường Nam Ngạn. Ông Mộc năm nay đã bước sang tuổi 85, nguyên là chính trị viên Đại đội dân công gánh bộ. Ông kể, hồi đó tôi đi dân công từ chặng Cẩm Thủy tới La Hán, Suối Rút. Anh em thương vong không nhiều nhưng lối mòn mới mở, rừng thiêng nước độc nên ai cũng sốt rét. “Ngay đại đội của tôi có lúc gần bốn chục người hầm hập sốt. Lại nữa, đi dân công toàn bà con làng xóm với nhau không phải như bộ đội chính quy. Đa phần đại đội gánh bộ là chị em nên cũng…rách việc, cứ nhớ nhà nhớ con là nước mắt sụt sùi. Ban ngày vào rừng trốn địch, đêm gánh gạo không đèn không trăng, chị em ngã dúi dụi”.
Ông Mộc nhớ lại: “Đường đi lúc đó mới phát quang, lại hẹp không được thắp đèn, người đi trước phải treo miếng vải trắng nhỏ để người đi sau nhìn mà theo. Dốc cheo leo tới mức cấp trên chỉ giao nhiệm vụ cho mỗi xe chở 60kg gạo, thực phẩm, thuốc men và cả đạn pháo nhưng anh em quyết tâm thồ ít nhất một tạ. Và cuối cùng cũng đến đêm hè lịch sử. Chúng tôi không nghe thấy tiếng súng từ mặt trận vọng về, cũng không thấy máy bay Pháp quần thảo thả bom; và linh tính rằng chiến dịch đã thắng lợi và quả thực như vậy. Sau ngày giải phóng Điện Biên, đại đội của tôi còn phải ở lại thêm mấy tháng để thu dọn chiến trường”.
Kiện tướng xe đạp thồ trong ký ức con trai
“Hồi đó tôi vận chuyển gạo từ Thanh Hoá đi đường rừng đến Xuân Mai. Ban ngày tránh địch rải bom nên chỉ chở gạo vào ban đêm, mỗi lần thồ khoảng 2 tạ, đến điểm lại giao cho anh em vận chuyển tiếp lên Cò Nòi (Sơn La). Vất vả nhất là mỗi khi chở lên dốc, phải có một lực lượng dừng xe lại để hỗ trợ nhau, một người buộc dây đầu xe kéo lên, một người đẩy phía sau xe. Khi xuống dốc phải tháo dép cao su chèn vào lốp xe để giảm phanh” - ông hào hứng kể.
Ông Trần Khôi, nguyên chính trị viên Đại đội dân công xe thồ hoả tuyến TP Thanh Hoá kể rằng, những năm 50 thế kỷ trước, chỉ gia đình khá giả mới có một chiếc xe đạp. Đó cũng là tài sản quý nhất của mỗi nhà. Thế nhưng người dân sẵn sàng đem xe ra trận, bản thân gia đình ông cũng góp một xe cho chiến dịch.
Nói về kỳ tích xe đạp thồ Điện Biên Phủ không thể không nhắc đến Trịnh Ngọc, một chàng trai “Phù Đổng” đã nâng mức trọng tải của loại phương tiện thô sơ này đạt kỷ lục tới 345kg.
Ông Trịnh Tuấn, nguyên giáo viên văn Trường THCS Đào Duy Từ (TP Thanh Hoá), con trai trưởng của Trịnh Ngọc kể: “Bố tôi sinh năm 1925 ở làng Thạc Quả, xã Yên Trường, huyện Yên Định thuộc dòng dõi chúa Trịnh. Năm 1945 ông tham gia Đội Vũ trang tuyên truyền của Thị bộ Việt Minh Thanh Hoá và là trung đội trưởng bảo vệ thành Thanh Hoá rồi Đại đội trưởng đại đội địa phương tiêu thổ kháng chiến. Bố tôi cao 1,82m nên còn có biệt danh là Ngọc cao. Tháng 1/1954, Thị uỷ Thanh Hoá cử ông làm chỉ huy trưởng, hướng dẫn đoàn dân công đi chiến dịch Điện Biên Phủ. Lúc đó mẹ tôi - bà Nguyễn Thị Sửu đã bán tư trang, đồ đạc trong nhà, gom tiền đóng góp mua một nửa chiếc xe cho chồng”.
Ông Tuấn mở tủ lấy những kỷ vật của cha để lại. Nào là các loại huân, huy chương kháng chiến, bộ quần áo dân công đã sờn, tấm ảnh chụp với cha…Ông nhớ lại: “Chiếc xe của bố tôi mang nhãn hiệu Xanh-tê-chiên của Pháp, được coi là loại “xịn” lúc bấy giờ. Ông tháo bỏ gần hết các phụ tùng như gác-đờ-bu, gác-đờ-sen, phanh, chuông...cải tiến thêm cái poóc-ba-ga thật chắc khoẻ, móc thêm cái giỏ sắt bỏ những ống nhôm đựng nước uống, thức ăn dọc đường; làm thêm một giá xe thồ bằng gỗ cứng khi cần lôi ra để đặt đỗ, dựng xe một cách dễ dàng. Bố tôi bảo, đoàn xe thồ ra tới giáp ranh Thanh Hoá - Hoà Bình là bắt đầu phải đi đêm. Chỉ hôm nào trời mù sương mới tranh thủ đi ban ngày".
Càng gần tới Điện Biên càng ác liệt. Máy bay “bà già” thả bom xuống làm một số anh em hy sinh ngay tại chỗ; có dân công trúng bom, cả người lẫn xe rơi xuống vực. Khổ nạn nhất vẫn là chuyện hỏng xe giữa núi rừng đèo dốc. Một anh hỏng xe, cả đoàn phải chờ. Chậm một phút là một phút ảnh hưởng tới chiến dịch. Trịnh Ngọc và đồng đội phải bốc dỡ toàn bộ số hàng của người hỏng xe lên xe mình để người này có thể ở lại, sửa xe xong, lại chạy theo cho kịp đoàn.
Hành trình không quản gian nguy, mệt mỏi của lực lượng dân công đã góp phần làm nên một Điện Biên Phủ lịch sử.