"Lao đao nghề biển” là loạt bài ghi lại nhiều khó khăn của nghề, từ những “tỷ phú biển” bỗng chốc trắng tay, đến tiếng thở dài giữa trùng khơi khi cá tôm vơi dần, hay cảnh tàu thuyền mắc cạn vì cảng cá bồi lắng. Nhưng, cũng chính những khó khăn thử thách ấy, đã xuất hiện những người tiên phong dám đổi mới từ cách nghĩ đến việc làm - mở hướng nuôi biển, xem biển không chỉ để khai thác mà còn để nuôi dưỡng bền vững.
Giảm khai thác, tăng nuôi trồng để giữ biển
Thanh Hóa vốn có ngư trường rộng lớn, nhưng nhiều năm qua, nguồn lợi tự nhiên suy giảm mạnh do khai thác quá mức. Không ít loài hải sản có nguy cơ cạn kiệt. Trước thực tế ấy, nuôi biển trở thành giải pháp tất yếu, vừa cung ứng thực phẩm chất lượng, vừa bảo vệ hệ sinh thái.
Đặc biệt, khu vực biển Hòn Mê (phường Hải Bình) được xem là một trong những vùng biển giàu giá trị sinh thái nhất của tỉnh. Đây là nơi cư trú của hàng trăm loài cá, tôm, mực, trai ngọc, đồng thời là ngư trường lớn với trữ lượng khoảng 15-20 nghìn tấn cá, khả năng khai thác mỗi năm từ 7-10 nghìn tấn.
Không chỉ là “kho dự trữ” thiên nhiên, Hòn Mê còn giàu tiềm năng nuôi trồng các loài giá trị cao như cá song, cá mú, tôm hùm... Hiện nơi đây đã có hàng chục hộ dân tại phường Hải Bình, Tĩnh Gia, mạnh dạn đầu tư nuôi biển với quy mô hàng chục nghìn mét khối lồng nuôi.

Cá được nuôi trong lồng bè tại vùng biển Hòn Mê. Ảnh: Quốc Toản.
Một trong những gương mặt tiên phong mở hướng nuôi biển là anh Lê Đình Dũng, phường Hải Bình. Năm 2023, anh đầu tư gần hơn 10 tỷ đồng dựng hệ thống lồng nhựa HDPE kiên cố tại khu vực biển Hòn Mê và thả nuôi 12 vạn cá chim, 3 vạn cá mú và 5 vạn cá bớp (cá giò).
Theo anh Dũng, khác với cách làm cũ bằng tre gỗ dễ hư hỏng, gây ô nhiễm, lồng HDPE bền chắc, ít ảnh hưởng môi trường. Cá được cho ăn theo định lượng, dùng giống chuẩn để hạn chế bệnh, không lạm dụng kháng sinh. Nhờ đó, mỗi năm anh thu 80-100 tấn hải sản, lãi ròng khoảng 700 triệu đồng.
Tại cùng khu vực biển Hòn Mê, Hợp tác xã Nuôi trồng Biển Đông - Đảo Mê do ông Phạm Văn Vinh làm Giám đốc đã triển khai hơn 170 lồng cá mú, cá bớp, cá chim... Ông Vinh chia sẻ: “Ngư dân đi biển nay đối mặt nhiều rủi ro, chi phí lớn, trong khi cá tôm ngày càng khan hiếm. Chúng tôi chuyển sang nuôi cá mú, cá bớp… trong lồng bè. Dù vốn đầu tư ban đầu rất lớn, nhưng người dân có thu nhập ổn định hơn”.

Ngư dân có thể thu tiền tỷ mỗi năm nhờ nuôi biển. Ảnh: Quốc Toản.
Theo ông Vinh, nếu thuận lợi, mỗi năm hợp tác xã cung ứng hàng trăm tấn thủy sản các loại, doanh thu đạt hàng chục tỷ đồng, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều ngư dân trong vùng.
Dù nuôi biển mang lại hiệu quả kinh tế và là hướng đi bền vững cho nguồn lợi thủy sản, thế nhưng theo ông Vinh, thực tế triển khai vẫn còn nhiều khó khăn. Việc duy trì lồng nuôi, đảm bảo chất lượng con giống, bảo vệ môi trường nước và ứng phó với thiên tai, dịch bệnh đòi hỏi nguồn lực và kỹ thuật cao. Nguy cơ từ biến đổi khí hậu, rủi ro bão gió, nguồn thức ăn cho cá ngày càng khan hiếm khiến không ít hộ nuôi phải đối mặt với thua lỗ. Hơn nữa, người dân còn chờ đợi những cơ chế pháp lý minh bạch, rõ ràng về quyền sử dụng mặt nước biển để yên tâm đầu tư lâu dài.
"Nuôi biển vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết, đặc biệt là thức ăn cho cá ngày càng khan hiếm. Rủi ro từ bão gió, dịch bệnh luôn rình rập. Hơn hết, người dân rất cần khung pháp lý rõ ràng về quyền sử dụng mặt nước biển để yên tâm đầu tư lâu dài. Bên cạnh đó, đầu tư nuôi biển rất tốn kém. Chúng tôi mong Nhà nước có chính sách hỗ trợ vốn vay ưu đãi để mở rộng quy mô chăn nuôi”, ông Vinh bày tỏ.
Hướng đến phát triển bền vững ngành thủy sản
Tỉnh Thanh Hóa với điều kiện tự nhiên đa dạng, bờ biển dài, nhiều cửa lạch và vùng đảo nên lợi thế rõ rệt để phát triển nuôi biển công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, tạo ra giá trị gia tăng lớn. Toàn tỉnh Thanh Hóa hiện có 19,2 nghìn ha nuôi trồng thủy sản, gồm 14 nghìn ha nuôi nước ngọt, 4,2 nghìn ha nuôi nước lợ và 1 nghìn ha nuôi ngao mặn. Đặc biệt, có tới hơn 5,7 nghìn lồng cá, trong đó nuôi biển chiếm tỷ lệ lớn với hơn 3,6 nghìn lồng.
Để đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản, trong đó có nuôi biển, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều quyết định quan trọng nhằm phát triển nghề nuôi cá lồng theo hướng công nghiệp. Trong đó Hòn Mê được ưu tiên kêu gọi đầu tư nuôi trồng thủy sản bằng lồng, bè, tổng quy mô 88 ha (gồm 15 ha nuôi tôm hùm và 73 ha nuôi cá biển). Tỉnh Thanh Hóa cũng định hướng đến năm 2045 sẽ đầu tư hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, gắn phát triển thủy sản với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo.
Ông Nguyễn Xuân Hưng, Trưởng phòng Nuôi trồng thủy sản (Chi cục Biển đảo và Thủy sản Thanh Hóa), nhấn mạnh: "Phát triển nuôi biển chính là hướng đi quan trọng để giảm áp lực khai thác tự nhiên và “chia sẻ gánh nặng” với môi trường. Nuôi biển còn góp phần hạn chế cường độ khai thác, đặc biệt là chấm dứt các hình thức tận diệt như giã cào, xung điện hay khai thác sai mùa, sai vùng, sẽ góp phần bảo vệ đa dạng sinh học biển. Các mô hình nuôi xa bờ bằng lồng nhựa HDPE hoặc nuôi ghép nhiều loài không chỉ tạo ra nguồn sản phẩm phong phú mà còn giúp giảm tác động tiêu cực lên hệ sinh thái".
Song song với đó, tỉnh đã xác định hành lang bảo vệ bờ biển, tạo cơ sở pháp lý giao mặt nước cho doanh nghiệp đầu tư nuôi biển công nghiệp; đồng thời khuyến khích các mô hình nuôi tôm, cua, cá, nuôi ngao ven biển, nuôi cá lồng trên hồ chứa để tận dụng không gian mặt nước và giảm rủi ro dịch bệnh.

Nuôi biển là giải pháp phát triển bền vững ngành thủy sản. Ảnh: Quốc Toản.
Dẫu còn nhiều thách thức như hạ tầng hạn chế, hộ nuôi nhỏ lẻ khó đạt tiêu chuẩn, dịch bệnh và thiên tai gây thiệt hại, chất lượng giống chưa đồng đều, nhưng thực tế phát triển những năm qua đã khẳng định nuôi biển là con đường tất yếu để phát triển bền vững ngành thủy sản Thanh Hóa. Việc giảm khai thác, tăng nuôi trồng không chỉ giúp ngư dân ổn định sinh kế mà còn là giải pháp quan trọng để giữ gìn hệ sinh thái biển cho mai sau.
Theo Chi cục Biển đảo và Thủy sản Thanh Hóa, xu hướng nuôi trồng đang tăng trưởng ổn định. Trong 8 tháng đầu năm 2025, tổng sản lượng thủy sản của Thanh Hóa ước đạt hơn 148 nghìn tấn, bằng 68,8% kế hoạch, tăng 2,3% so với cùng kỳ. Trong đó, khai thác đạt hơn 94 nghìn tấn; nuôi trồng đạt hơn 60 nghìn tấn, chiếm hơn 40% tổng sản lượng và tăng 2,7% so với cùng kỳ.