Tàu, thuyền thiếu vắng lao động
Một tuần nay, ông Phạm Gia Quyết (phường Sầm Sơn, Thanh Hóa) lặn lội khắp nơi để tìm đủ bạn thuyền cho chuyến khơi xa. Ông bảo: “Ngày xưa, cá tôm nhiều, chỉ cần hô một tiếng là trai tráng trong làng đã rủ nhau ra bến. Mỗi chuyến tôi thuê gần chục người, chưa bao giờ phải lo thiếu lao động. Giờ thì khổ lắm, có khi cả tuần chạy ngược xuôi mà vẫn chẳng gom đủ”.

Ông Phạm Gia Quyết (bên trái) trao đổi với phóng viên. Ảnh: Tâm Phùng.
Chủ tàu TH-93368-TS kể, cách đây hai hôm, ông phải xuống tận Quảng Thạch năn nỉ, thuyết phục mãi, người ta mới chịu đi cùng. Trên chiếc tàu chuẩn bị ra khơi có 12 lao động, trong đó có 5 người đã ngoài 60, số còn lại cũng từ 45-60 tuổi. Cá biệt, có những thuyền viên tóc đã bạc, ở tuổi 73 vẫn phải gắng gượng bám biển. Vài tháng nay, con tàu lênh đênh giữa trùng khơi chẳng còn dáng dấp trai tráng, mà chỉ toàn những gương mặt in hằn vết nhọc nhằn, đôi bàn tay run rẩy níu kéo từng mẻ lưới.
Khác với trước đây, khi mỗi chuyến biển trở về, sau khi trừ chi phí, cả tổ còn chia nhau phần dư kha khá, nay sản lượng ngày một ít, nhiều chuyến thậm chí lỗ vốn. Thu nhập giảm sút, nhiều bạn thuyền đành bỏ nghề, tìm kế sinh nhai nơi khu công nghiệp hoặc đi xuất khẩu lao động.
“Thanh niên trai tráng lớn lên đều rời quê tìm việc nơi khác. Người còn bám trụ thì tuổi đã cao, phải đối diện sóng gió dập dềnh, rủi ro luôn rình rập. Một chuyến khơi xa kéo dài cả tháng, chỉ cần một sự cố nhỏ cũng có thể đe dọa cả chục sinh mạng, trong khi thu nhập ngày càng bấp bênh nên họ không muốn theo nghề”, ông Quyết nghẹn giọng nói.

Lao động trên tàu cá của ông Quyết chủ yếu là người từ 45 đến hơn 60 tuổi. Ảnh: Quốc Toản.
Dẫu khó, ông Quyết vẫn phải bám trụ bởi gánh nặng nợ nần treo lơ lửng. Hơn 1 tỷ đồng vay ngân hàng, cùng khoản lãi phải trả hằng tháng khiến ông không còn đường lui.
“Trung bình mỗi chuyến đi tiêu tốn khoảng hơn 100 triệu đồng tiền chi phí. Mấy chuyến gần đây toàn lỗ vì nguồn lợi thủy sản cạn dần. Nhưng nếu không ra khơi thì anh em bỏ đi, mà nợ lâu có khi mất cả tàu. Để tàu nằm ở cảng thì không đành, vì để lâu máy móc xuống cấp, tiền bảo dưỡng thì cứ đội lên”, ông Quyết nói.
Nỗi niềm của ông Quyết cũng là tâm sự chung của nhiều ngư dân vùng biển Lạch Hới. Biển vẫn đó, ngư trường vẫn rộng dài, cá tôm vẫn còn, nhưng những cánh tay trai tráng quen sóng gió ngày càng thưa thớt trên boong thuyền.
Ông Viên Đình Sỹ, thuyền trưởng tàu cá TH- 92929-TS, ngậm ngùi: “Tìm lao động trẻ như mò kim đáy bể. Muốn có người làm phải thuê công nhật tới 700 nghìn đồng/ngày, hoặc thuê theo tháng từ 13-15 triệu đồng mà vẫn chẳng dễ kiếm người. Nghề biển cực nhọc, rủi ro nhiều, nên lớp trẻ dần quay lưng với biển. Chúng tôi mong Nhà nước có thêm chính sách hỗ trợ chi phí nâng cấp tàu thuyền, nhiên liệu, để ngư dân yên tâm bám biển, vừa giữ nghề vừa giữ chủ quyền nơi đầu sóng ngọn gió".
Lời giải nào để giữ người ở lại với biển?
Toàn tỉnh Thanh Hóa hiện có hàng nghìn tàu cá với hàng vạn lao động trực tiếp bám biển, nhưng lực lượng này đang ngày một hao hụt. Đội tàu khơi vốn được coi là “xương sống” trong nghề, nay chủ yếu dựa vào lớp lao động lớn tuổi. Tại Cảng Lạch Hới có khoảng 100 tàu chiều dài hơn 15 m trở lên.

Ông Lê Văn Thăng, Giám đốc Ban Quản lý cảng cá Thanh Hóa. Ảnh: Quốc Toản.
Theo ông Lê Văn Thăng, Giám đốc Ban Quản lý Cảng cá Thanh Hóa, dù sản lượng khai thác thủy sản không giảm, nhưng giá trị gia tăng không cao, khiến thu nhập của thuyền viên bấp bênh. Đây cũng là nguyên nhân khiến lao động trẻ ngày càng quay lưng với nghề.
Tại cảng Lạch Hới có khoảng 600 lao động làm việc trên tàu cá từ 15 m trở lên, trong đó số lao động từ 45- 60 tuổi chiếm chủ yếu (80- 90%). Mỗi năm có khoảng 10-15% lao động bỏ nghề đi biển. Để có bạn thuyền, không ít chủ tàu phải trả tiền trước để giữ chân người lao động, thậm chí có chuyến phải hoãn lại, chờ đủ người mới dám xuất bến.
"Tính đến tháng 9/2025, sản lượng hàng hóa, thủy sản qua cảng đạt hơn 20 nghìn tấn, tuy nhiên điều đáng lo là giá trị gia tăng của hàng hóa nhập cảng lại giảm tới 15-20%. Những chuyến biển không còn đầy ắp cá tôm có giá trị thương phẩm cao như trước khiến các doanh nghiệp chế biến thủy sản cũng rơi vào cảnh lao đao", ông Thăng nói.
Để giữ chân người lao động với nghề biển, ông Thăng cho rằng cần Nhà nước có chính sách đồng bộ trước mắt cũng như lâu dài: “Ngư dân mong muốn cơ quan chức năng chia sẻ gánh nặng chi phí thông qua việc hỗ trợ một phần nhiên liệu, đá lạnh, nhu yếu phẩm trong mỗi chuyến khơi xa. Cùng với đó là chính sách vay vốn ưu đãi để ngư dân nâng cấp tàu thuyền, trang bị thiết bị an toàn, giảm sức lao động thủ công; đồng thời hình thành quỹ hỗ trợ rủi ro, tai nạn nghề cá để người đi biển và gia đình yên tâm hơn.
Đối với lao động trẻ, cần có chính sách khuyến khích thiết thực như hỗ trợ bảo hiểm xã hội, y tế, hỗ trợ học nghề cho con em của những lao động trẻ bám biển dài hạn. Hỗ trợ ngư dân ứng dụng công nghệ khai thác và bảo quản sau thu hoạch sẽ giảm thất thoát, nâng cao giá trị sản phẩm, qua đó cải thiện thu nhập".
Cũng theo ông Thăng, điều không kém phần quan trọng là việc kết nối sản xuất với đời sống trên bờ, đó là cần có chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống cảng cá, kho lạnh, xưởng chế biến đáp ứng yêu cầu dịch vụ hậu cần nghề cá hiện đại, nhằm tạo thêm việc làm phụ trợ cho ngư dân.
Ông Trịnh Ngọc Nam, đại diện Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thủy sản FXPT (địa chỉ tại Thanh Hóa), chia sẻ: “Do sản lượng, chất lượng hàng hóa thủy sản khai thác sụt giảm khiến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Năm 2023, chúng tôi phải nhập khẩu gần như toàn bộ mực nguyên liệu để chế biến xuất khẩu, bởi thủy sản không rõ nguồn gốc xuất xứ thì không được thông quan. Năm nay, lượng nguyên liệu đánh bắt và nhập qua cảng cũng không đạt. Vì thế, sản lượng sản phẩm giá trị gia tăng càng hạn chế.”
Theo số liệu thống kê, đến tháng 8/2025, toàn tỉnh có 6.603 tàu cá với hơn 21.600 lao động trực tiếp trên biển. Trong đó, có 1.062 tàu cá có chiều dài từ 15 m trở lên chuyên khai thác hải sản vùng khơi; 5.541 tàu cá có chiều dài dưới 15 m chuyên hoạt động khai thác vùng ven bờ và vùng lộng.