| Hotline: 0983.970.780

Kỳ tích viết trên lưng núi: [Bài 1] Trở lại Hồng Ca

Thứ Hai 20/10/2025 , 05:50 (GMT+7)

Nhắc đến Hồng Ca là nhắc đến hành trình thoát khỏi bóng tối của đói nghèo, lạc hậu để đón bình minh hạnh phúc.

LTS: Bóng tối của đói nghèo, lạc hậu dần bị bỏ lại phía sau bởi khát vọng, ý chí và nỗ lực của con người. Loạt bài này tiếp tục là những ghi chép ở vùng núi cao Tây Bắc, nơi mỗi đổi thay của một số phận hay một vùng đất đều là những kỳ tích được viết trên lưng núi.

Những cuộc "cách mạng" trên núi

Lần thứ nhất tôi lên Hồng Ca là hồi tháng 6 năm nay, nằm trong chuỗi tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo xây dựng nông thôn mới. Hồng Ca lúc đó vẫn còn là tên của một xã, được nhắc đến như là một kỳ tích về công cuộc giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, không chỉ với riêng tỉnh Yên Bái cũ mà còn là đại diện ưu tú bậc nhất của vùng núi cao Tây Bắc.

Hồng Ca ngày mới. Ảnh: Thanh Tiến.

Hồng Ca ngày mới. Ảnh: Thanh Tiến.

Ấn tượng đầu tiên về vùng đất Hồng Ca là qua câu chuyện với ông Trần Huy Tuấn, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái thời điểm đó, hiện là Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai. Ông Tuấn kể: Trước năm 2015, xã Hồng Ca của huyện Trấn Yên vẫn chìm trong bóng tối của đói nghèo và lạc hậu. Tổng diện tích tự nhiên của xã trên 9.300 ha với hơn 6.300 nhân khẩu. Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 90%, trong đó trên 30% là đồng bào dân tộc Mông. Cơ sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 65%...

Chỉ riêng vận động người dân làm nhà vệ sinh đã là một cuộc cách mạng, ông Trần Huy Tuấn nhớ lại. Tỉnh Yên Bái phải chỉ đạo huy động gần 50 cán bộ vào “cắm chốt” ở Hồng Ca, cùng ăn ở với bà con cả năm trời để vận động đồng bào thay đổi tập quán, từ đi vệ sinh ngoài vườn ngoài đồng hay lên đồi thay bằng đi vào nhà vệ sinh. Gian nan lắm, bởi tập quán của đồng bào xưa nay “thuận theo tự nhiên”, giờ bảo đưa vào khuôn khổ, nền nếp không thể là chuyện ngày một ngày hai có thể xuôi ngay được. Thậm chí có những gia đình, cán bộ phải làm công tác dân vận cả tháng trời dân mới chịu làm nhà vệ sinh, kèm theo điều kiện: "Cán bộ xây đi, tao vào đi thử xem thế nào, nếu mát mẻ thì tao sẽ không lên đồi nữa".

Song song với cuộc "cách mạng" về nhà vệ sinh là phong trào mở đường giao thông, đưa cây quế, cây măng tre Bát Độ, cây dược liệu về giúp bà con có thêm sinh kế. Nhờ tinh thần Nhà nước và nhân dân cùng nỗ lực, Hồng Ca dần tạo nên những kỳ tích. Trước thời điểm tinh gọn bộ máy và sáp nhập vào xã mới, Hồng Ca là xã nông thôn mới nâng cao, thu nhập bình quân đầu người hơn 65 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn dưới 6%. Vùng đất tăm tối xưa kia đã trở thành thủ phủ quế với 2.500ha, măng tre Bát Độ 1.500ha, ngày càng xuất hiện nhiều tỷ phú, nhiều mô hình liên kết hợp tác xã, chuỗi sản xuất, chế biến đáp ứng tiêu chuẩn thị trường.

Ông Phạm Xuân Toàn trò chuyện với đồng bào người Mông ở Khe Ron. Ảnh: Thanh Tiến.

Ông Phạm Xuân Toàn trò chuyện với đồng bào người Mông ở Khe Ron. Ảnh: Thanh Tiến.

Trở lại Hồng Ca lần này, xã đã nhập vào để trở thành xã Hưng Khánh mới. Diện tích 122,18km2, dân số 14.132 người. Ông Phạm Xuân Toàn, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Hồng Ca, hiện là Phó Bí thư Đảng ủy xã Hưng Khánh đón chúng tôi cùng lên Khe Ron, gặp lại Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn Vàng A Sò, để mắt thấy tai nghe những câu chuyện chẳng khác gì cổ tích.

Bí thư Vàng A Sò còn khá trẻ, mới chỉ ngoài 30 nhưng đã sở hữu hơn 10ha đất, cả trồng quế lẫn măng tre Bát Độ. Năm nay quế bóc tỉa tại đồi thương lái đang thu mua có giá 20 nghìn đồng/kg. Giá bán cành, lá phơi khô cũng xấp xỉ mức ấy. Còn măng tre Bát Độ đang bán 5 triệu đồng/tấn. Vị chi 1ha cũng thu ít nhất 60 -70 triệu đồng mỗi vụ. Thôn Khe Ron có gần 300ha quế, gần 100ha đất trồng măng tre và 12ha đất trồng lúa. Đất đai ấy chia cho 118 hộ dân, 668 nhân khẩu chủ yếu là người Mông, Vàng A Sò cười bảo: "Nếu dân không lười chắc chắn sẽ giàu đấy". Một số hộ trong thôn như Thào A Tủa, Sùng A Câu, Sùng Giảng Po… đều có trên 10ha đất, chỉ cần cắt tỉa quế, măng cũng đã giàu rồi. Nhà cửa khang trang, lại còn sắm cả ô tô. Cả thôn Khe Ron chỉ còn có 4 hộ nghèo, đều là những hộ tàn tật, mất khả năng lao động.

Bản Khe Ron nhìn từ trên cao. Ảnh: Thanh Tiến.

Bản Khe Ron nhìn từ trên cao. Ảnh: Thanh Tiến.

So với ngày trước, quả là không ai hình dung được. Ánh mắt Vàng A Sò chợt chùng xuống khi nhớ lại những ngày tháng cũ. Nghe ông bà, bố mẹ kể lại rằng, trước năm 1984, dân bản Khe Ron còn sinh sống trên Làng Nhì, Tà Xi Láng và Phình Hồ, những xã vùng cao của huyện Trạm Tấu cũ. Nghèo đói quá mới phải đi tìm đất phát nương làm rẫy. Họ băng rừng, vượt núi đến với Khe Ron và quyết định dừng chân tại vùng đất này.

Thuở đầu, dân bản sống rải rác trên những ngọn núi cao. Thoáng mát nhưng đói lắm. Mấy chục hộ dân dựa vào phát rừng làm lúa nương nhưng mỗi năm làm được có một mùa. Phải đến cuối tháng 11 lúa nương mới cho thu hoạch, chỉ đủ ăn được tầm đôi ba tháng. Còn lại sống nhờ vào củ sắn, củ nâu, củ đao, củ mài..., những loài cây dại, mọc tự nhiên trên rừng, có thứ chát xít những buộc phải ăn vì nếu không sẽ chết đói. Đều đặn hàng năm, cứ đến mùa giáp hạt là dân bản sẽ được cấp khoảng 10 tấn gạo cứu đói, năm nào chưa có, y như rằng lại ngóng đến dài cả cổ.

Vàng A Sò kể về hành trình người Mông ở Hồng Ca. Ảnh: Khương Trung.

Vàng A Sò kể về hành trình người Mông ở Hồng Ca. Ảnh: Khương Trung.

Năm 1997, Nhà nước lên vận động dân bản Khe Ron xuống thấp hơn, khai hoang thêm ruộng để trồng lúa nước. Đó lại là một cuộc "cách mạng" nữa. Người Mông chỉ quen trồng lúa nương, Nhà nước “bắt” be bờ làm ruộng chẳng khác gì đánh đố. Đến mức ông lão Thào A Sinh được giao ruộng xong cứ ngồi bên bờ khóc. Ruộng nhiều thế này, bắt tao lội bùn cấy tao không làm được. Vận động mãi ông mới chịu làm, bây giờ ông Sinh là người nhiều ruộng nhất Khe Ron.

Quãng thời gian sau đó, cây quế, cây măng tre Bát Độ về với bản. Ông Phạm Xuân Toàn nhớ lại, khoảng năm 2017, cả hệ thống chính trị cùng xuống Khe Ron hỗ trợ người dân trồng măng tre Bát Độ. Hình thức là Nhà nước hỗ trợ giống thông qua hệ thống khuyến nông. 1 củ giống giá 5.000 đồng, cứ 1ha trồng từ 300-400 củ. Rồi quế cũng vậy, nhờ đó mà Khe Ron dần thành rừng.

“Từ năm 2017 đến nay, dân bản không còn phải xin gạo cứu đói nữa rồi. Nhà Sùng A Vư còn sắm được 1 xe con, 1 xe thùng, tất cả đều nhờ vào cây quế, cây măng tre Bát Độ. Kiếm tiền giờ dễ lắm. Chỉ đi làm công cho người ta cũng kiếm được 400-500.000 đồng/ngày, tha hồ mua gạo”, Bí thư Vàng A Sò cười khoe.

Người Mông nói lời hay làm việc tốt. Ảnh: Thanh Tiến. 

Người Mông nói lời hay làm việc tốt. Ảnh: Thanh Tiến. 

Khe Ron kiểu mẫu

 Nếu không sáp nhập xã Hồng Ca và Hưng Khánh, thời gian này thôn Khe Ron sẽ đón nhận danh hiệu nông thôn mới kiểu mẫu. Hơn ai hết, Bí thư Vàng A Sò cảm thấy tiếc, bởi đó sẽ là cột mốc ghi dấu ngày Khe Ron hoàn toàn thoát khỏi bóng tối, hướng đến đời sống bình yên, hạnh phúc. Giống như thôn người Mông bên cạnh là Khuôn Bổ - thôn đầu tiên của tỉnh Yên Bái cũ được công nhận nông thôn mới kiểu mẫu.  

Anh Sò dẫn tôi đi một vòng quanh bản. Quả thật Khe Ron bây giờ quá khang trang với nhà cửa cơ bản đã được kiên cố hóa. Bí thư chi bộ thôn Khe Ron khoe, từ nhiều năm trước, tiêu chí sạch đã được đưa vào quy ước của thôn. Người sạch, nhà sạch, bếp sạch, đường sạch, khu vệ sinh sạch… Hộ nào trong bản cũng ký cam kết tham gia và dần trở thành một nét văn hóa. Tính cộng đồng của đồng bào được khơi gợi và phát huy để đưa Khe Ron từng bước vươn lên. Trên cổng chào đi vào bản, khẩu hiệu "Người Mông nói lời hay, làm việc tốt" đã phần nào chứng minh điều đó.

Thủ lĩnh Vàng A Sò. Ảnh: Khương Trung.

Thủ lĩnh Vàng A Sò. Ảnh: Khương Trung.

Nghe bảo năm vừa rồi, thôn đã xóa nốt 4 căn nhà tạm, dân bản lại còn hiến đất, góp công cùng nhau làm cầu qua suối, làm đường lên núi để phát triển mô hình nuôi cá nước lạnh. Ngoài diện tích canh tác, Khe Ron còn được Nhà nước giao quản lý và bảo vệ 739ha rừng. 38 thanh niên khỏe mạnh ở trong bản được tuyển chọn tham gia vào 4 tổ công tác, Bí thư Sò là tổ trưởng, phân công nhau đi tuần tra mỗi tháng 4 lần. Với dân bản Khe Ron, rừng giờ đây không chỉ cung cấp nguồn nước để trồng lúa, mà còn che chở những mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng như sa nhân, thiên niên kiện…

“Làm nhẹ nhàng mỗi kg cũng bán được 10.000 đồng”, Vàng A Sò tiết lộ. Tiềm năng, lợi thế của Khe Ron giờ đây không còn đơn thuần là rừng quế, đồi măng tre Bát Độ rộng bạt ngàn, mà sắp tới, Bí thư chi bộ Vàng A Sò sẽ định hướng cho bà con phát triển thêm dược liệu dưới tán rừng. Xa hơn, anh còn muốn vận động dân bản phát triển thêm các mô hình du lịch cộng đồng. Bởi Khe Ron, như tên gọi, có thác nước rất đẹp, có ruộng bậc thang, nếu kết hợp với phát huy các sản vật của người Mông như thịt lợn bản gác bếp, gà đen và nhiều loại nông sản khác, rất tiềm năng để thu hút du khách đến với bản. Tất cả sẽ cùng tham gia vào chuỗi của hợp tác xã, từ những cây trồng chủ lực, chế biến sản phẩm nông sản đến du lịch cộng đồng.

Đó cũng là mong muốn của Phó Bí thư Phạm Xuân Toàn và đội ngũ lãnh đạo xã Hưng Khánh mới.

Những bó lúa theo chân người Mông ở Hồng Ca về nhà. Ảnh: Thanh Tiến. 

Những bó lúa theo chân người Mông ở Hồng Ca về nhà. Ảnh: Thanh Tiến. 

Hưng Khánh hạnh phúc

Anh Toàn chia sẻ, sau sáp nhập, xã Hưng Khánh mới xác định lợi thế phát triển của địa phương vẫn là nông nghiệp. Xã sẽ xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, theo các chuỗi giá trị với các sản phẩm chủ lực, song song với thử nghiệm và đưa vào sản xuất các loại cây trồng mới có giá trị kinh tế cao như trồng dâu nuôi tằm, trồng cây dược liệu dưới tán rừng, nuôi cá nước lạnh…

Thực tế trước khi “về một nhà”, Hồng Ca và Hưng Khánh cũ đã xây dựng được 8 dự án liên kết theo chuỗi giá trị trên tất các các sản phẩm chủ lực và thu hút được 1 nhà máy chế biến  sản phẩm chủ lực theo công nghệ cao. Có 2 doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực chế biến nông, lâm sản theo chuỗi giá trị với các sản phẩm chủ lực của địa phương như chế biến măng tre Bát Độ, chế biến gỗ xuất khẩu.

Dẫu chặng đường phía trước còn nhiều khó khăn, nhưng Phó Bí thư Đảng ủy xã Hưng Khánh tin tưởng: Toàn xã hiện có gần 190 ha chè, trong đó 70 ha là chè chất lượng cao, được trồng tập trung tại các thôn Bản Xèo, Hồng Ngài, Háng Bla. Cùng với đó là diện tích tre măng Bát Độ với gần 1.900 ha, sản lượng hằng năm khoảng 10.600 tấn/năm, giá trị kinh tế ước đạt trên 60 tỷ đồng. Diện tích trồng quế của xã hiện cũng đã vượt 3.000ha, sản lượng quế khô ước đạt khoảng 1.000 tấn/năm... Đó thực sự là những nền tảng để xã Hưng Khánh mới tiếp tục tạo nên những kỳ tích. Và con đường phía trước, không thể khác là thu hút đầu tư và liên kết. Trong 5 năm qua, cả Hồng Ca và Hưng Khánh đã thành lập mới được 5 doanh nghiệp, 7 hợp tác xã và 23 tổ hợp tác, nâng tổng số doanh nghiệp đang hoạt động lên 21 doanh nghiệp, 14 hợp tác xã và 23 tổ hợp tác.

Những ngôi nhà khang trang ở Hồng Ca, nay là xã Hưng Khánh. Ảnh: Thanh Tiến.

Những ngôi nhà khang trang ở Hồng Ca, nay là xã Hưng Khánh. Ảnh: Thanh Tiến.

Đặc biệt xã Hưng Khánh mới đã thu hút đầu tư được 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là Công ty TNHH Yamazaki Nhật Bản để liên doanh đầu tư chế biến sau thu hoạch sản phẩm măng tre Bát Độ -  một trong những sản phẩm chủ lực của xã. Ngoài ra, Hợp tác xã quế Hưng Khánh cũng đã xuất khẩu được sản phẩm sang thị trường Nam Á. Đến nay xã Hưng Khánh mới cũng đã có 7 sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn từ 3 sao trở lên, trong đó sản phẩm chè Bát Tiên của Hợp tác xã Khe Năm là niềm tự hào của người dân nơi đây khi đạt chuẩn OCOP 4 sao. Các sản phẩm chủ lực đều có tem truy xuất nguồn gốc và một số sản phẩm đã có chứng nhận Viet GAP, hữu cơ, chỉ dẫn địa lý như sản phẩm chè, măng tre Bát Độ…

“Mục tiêu của Hưng Khánh là hướng đến phát triển xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc. Song song với phát triển kinh tế, xã sẽ tập trung các giải pháp nâng cao chỉ số hạnh phúc người dân, xây dựng và nhân rộng các mô hình “Trường học hạnh phúc”, “Lớp học hạnh phúc”, “Gia đình hạnh phúc”, “Thôn, bản hạnh phúc”… để viết tiếp kỳ tích mà Hồng Ca đã viết, đang viết”, anh Toàn phấn khởi.

Xem thêm
Nghệ An:Ưu tiên dựng lại nhà cho người dân

Nghệ An đang tập trung cao độ khôi phục hạ tầng, khẩn trương dựng lại nhà và tái thiết cuộc sống cho người dân sau bão lũ.