Chuyện nhà bà Hòa
Nó nằng nặc đòi mẹ cho ngồi ngay vào dù cái xe đồ chơi chưa kịp rửa bùn đấ, tay vần vô lăng, miệng reo lên: “Pẹ ơi, ẹp ẹp" (Mẹ ơi, đẹp, đẹp). Đứa bé ấy cũng theo mẹ ngồi trên mái nhà ông ngoại ở xóm Soi 3, xã Phú Bình suốt một ngày một đêm trong dịp chạy lụt vừa qua.

Đứa con chị Hà Thị Tuyên thích thú với cái xe đồ chơi mẹ nhặt được sau lũ. Ảnh: Dương Đình Tường.
Đoạn sông Cầu chảy qua xóm Dinh (xã Điềm Thụy, tỉnh Thái Nguyên) bình thường nhỏ bé và trong xanh đến mức nhìn thấy cả những viên sỏi ven bờ, thế mà giờ đây đục ngầu và phình to như một vết thương hở, lở loét kéo theo không biết bao nhiêu bụi tre, khóm chuối, tường rào. Dân vùng này đã quen với cảnh ngập lụt, có nhiều kinh nghiệm đối phó nhưng trận lụt do bão Matmo gây ra nằm ngoài trí tưởng tượng của họ, kể cả những người trên 100 tuổi.
Chị Hà Thị Tuyên kể, năm ngoái trận lụt do bão Yagi nước ngang cửa nhà, vội chạy mà không kịp mang quần áo theo khiến bé Trang mới 6 tháng tuổi phải chịu rét, còn anh chị của nó thì mất hết sách vở. Năm nay, rút kinh nghiệm khi thấy nước to chị giục chồng mang theo quần áo, sách vở của các con chạy sang nhà ngoại, còn mẹ chồng thì chạy sang nhà con trai cả ở xóm Đầm của xã Phú Bình. Nhưng không ngờ, nước lên nhanh quá nên nhà bố mẹ đẻ của chị vốn cao là thế cũng bị ngập lút, cả gia đình phải căng bạt lên mái mà ngồi, ăn mì tôm để cầm cự.
Bà Nguyễn Thị Hòa - mẹ chồng chị Tuyên chỉ cho tôi mốc giới của vườn nhà mình hiện đã bị dòng sông ăn vào đến 15-20m, mất khoảng 1 sào đất (360m2) rồi lại chỉ vào khu chuồng trại nay đã tan tành, mái lợp, khung sắt, thân chuối ngoài vườn đổ ngả lẫn lộn vào nhau khiến lợn nái, bò mẹ vẫn phải đi gửi. Có thể, chỉ cần lụt thêm một trận nữa là sông Cầu vào đến sân nhà. Cạnh nhà bà Hòa là nhà anh Trương Văn Thảo có một dãy chuồng lợn lớn bị sập chỉ còn trơ lại nền móng, nhà anh Lê Văn Nam có một khu chuồng lợn nhỏ cũng bị sập.
Chồng mất đã hơn 10 năm nay, bà một mình nuôi ba đứa con và hiện sống cùng vợ chồng người con trai thứ và ba đứa cháu trong một ngôi nhà cấp bốn nền sụt lún, vì kèo mọt rỗng, hễ mưa to, gió lớn là phải đi di tản. Bà trồng 1 sào chuối lá chặt bán cho hàng giò mỗi tháng được khoảng 100.000đ, còn thân thì để nuôi bò, nuôi lợn. Bà cấy 2 sào lúa lấy thóc ăn cho người, gieo 4 thước ngô lấy thức ăn cho vật. Nguồn thu chính của nhà chỉ trông vào hai suất lương của đứa con trai và con dâu, tổng được khoảng 14-16 triệu đồng.
Ngược thời gian hơn 10 năm trước, năm 2010 khi chồng bà mắc ung thư, phải mổ, gia đình xin vào hộ nghèo mà không được. Mãi khi thấy ông trở bệnh nặng quá, năm 2014 người ta mới duyệt cho vào hộ nghèo, ông hưởng bảo hiểm y tế được 1 năm thì mất, để lại cho vợ con khoản nợ 195 triệu đồng.

Cảnh đổ nát ở vườn chuối nhà bà Nguyễn Thị Hòa. Ảnh: Dương Đình Tường.
“Bảo hiểm y tế chỉ duyệt cho mỗi lần đi viện có 15 ngày nên hồi ấy tôi phải làm thủ tục ra viện cho chồng, đến cổng lại nhập viện để điều trị tiếp. Trong 10 đồng chi phí thì bảo hiểm có khi chỉ trả được 2 đồng, còn lại gia đình phải lo. Hơn 10 năm rồi nhưng tôi mới trả được 50 triệu đồng tiền nợ chữa bệnh cho chồng, trong khi bản thân phải tự mua bảo hiểm y tế với mức đóng 1,3 triệu đồng/năm và hiện đang bị u tuyến giáp. Chẳng hiểu sao xóm giờ có nhiều người mắc ung thư đến thế...”.
Khi tôi hỏi tài sản gì giá trị nhất trong nhà, bà lắc đầu. Thấy tôi cứ nhìn vào đôi hoa tai màu vàng óng ánh mình đang đeo thì bà liền giải thích: “Tôi đi ăn cỗ thấy người ta có hoa tai mà mình không có thì ngại nên mới mua trên mạng đôi hoa tai mỹ ký này với giá 15.000đ ”.
Trở về nhà sau trận lụt, bà Hòa thẫn thờ nhìn ngấn nước còn in rõ sát cả mái. 2 cái xe máy, 1 cái xe đạp điện, 1 ti vi, 1 tủ lạnh, 1 máy giặt, 1 quạt điều hòa, 1 quạt cây, 1 nồi cơm điện, 1 máy lọc nước bị hỏng nên con trai, con dâu bà phải mượn 1 cái xe máy để đi chung dù người làm ở đầu, người làm ở cuối khu công nghiệp Điềm Thụy. Ngoài đồng thì 6 sào ngô, 4 sào lúa cũng thối sạch. Tổng thiệt hại khoảng 50 triệu đồng. Đồ ăn, thức uống thì tháng này bà đã có 30 kg gạo, vài thùng mì tôm, nước uống của các đoàn cứu trợ tặng. Nhưng lo nhất là từ tháng tiếp đến tận tháng 6 năm sau, khi gặt vụ lúa xuân thì ăn bằng cái gì, rồi sửa sang nhà cửa, chuồng trại ra sao khi không một xu dính túi?

Khu chuồng lợn của anh Trương Văn Thảo chỉ còn nền, móng. Ảnh: Dương Đình Tường.
"Cuộc chiến” bảo vệ bãi Soi
Anh Nguyễn Quang Thọ, Bí thư xóm Dinh nói như phân bua với tôi rằng, chỉ tiêu thoát nghèo năm nào trên cũng bảo phải phấn đấu giảm, trong khi mỗi đợt xóm bình xét nhiều hộ khó khăn lại muốn lọt vào danh sách này. Bất cập lớn nhất là cách tính điểm hộ nghèo. Những vật dụng như nhà, xe, trang thiết bị tuy không làm ra tiền nhưng lại được cộng nhiều điểm, còn sinh kế thì không được chú trọng mấy.
Cứ có xe máy, không cần biết là trăm triệu như Honda SH hay vài trăm ngàn như xe máy cũ của Tàu cũng cộng ngần này điểm; Cứ có ti vi, tủ lạnh, bình nóng lạnh… không cần biết cũ hay mới, được cho hay phải mua cũng cộng ngần này điểm; cứ có hai lao động là cộng ngần này điểm. Nhà bà Hòa tuy khó khăn thật nhưng đều có những vật dụng ấy, lại có con trai, con dâu đang đi làm ở khu công nghiệp nên chẳng thể nào xếp vào hộ cận nghèo được.
Xóm có 188 hộ, trong đó 8 hộ nghèo, 9 hộ cận nghèo. Ở các hội nghị người ta nói rằng bà con phải áp dụng khoa học kỹ thuật, cây con giống mới vào để thoát nghèo, tăng thu nhập tuy nhiên chẳng thấy đầu ra đâu. Cánh đồng Soi rộng 34 ha của mấy xóm Đò, Dinh, Trại, Điếm, Nghể… trước đây trồng thanh hao hoa vàng nhưng khi cây cao hơn đầu người doanh nghiệp hứa bao tiêu “lặn” một mạch không sủi tăm; trồng ngô ngọt nhưng đến ngày thu hoạch chẳng biết tìm doanh nghiệp ở đâu, để quá lứa đành phải bẻ cho trâu mà chúng cũng chê vì già quá sinh đắng. Năm ngoái có doanh nghiệp về định hợp tác trồng gừng xuất khẩu nhưng như con chim đã một lần thoát chết bởi cung tên, giờ thấy cành cong là sợ, bà con không nghe theo nữa mà trở lại trồng ngô lai.

Anh Nguyễn Quang Thọ, Bí thư xóm Dinh bên bãi Soi. Ảnh: Dương Đình Tường.
Chỉ khoảng hơn 1 mét đất bên dưới bãi Soi là lớp cát sỏi dày đến cả chục mét, như một cái bánh khổng lồ phơi bày lộ thiên nên trước thường bị khai thác trộm. Cách đây 10 năm tỉnh Thái Nguyên tổ chức đấu giá quyền khai thác và một doanh nghiệp đã trúng trên diện tích 29,3ha, trữ lượng xấp xỉ 700.000 m3 trong thời gian 10 năm. Khi biết tin ấy đa số người dân phản đối vì không được hỏi ý kiến và nhất định không chịu bán đất bãi. Hễ doanh nghiệp huy động máy về là dân đánh trống, huy động người ra ngăn cản. Sợ máy lén lút đi đêm, dân còn xây hai cái trụ bê tông ở cuối đường vào bãi Soi.
Trong nắng chiều chạng vạng, bóng anh Nguyễn Quang Thọ đổ dài trên bãi Soi lúc này nom hoang tàn như trên mặt trăng với một lớp bùn đất dày đè lên những thân ngô bị đổ rạp. Thấy tôi chụp ảnh, một toán người bỗng tiến lại, hỏi đôi câu rồi bỏ đi. Anh Thọ bảo, đó là những người của doanh nghiệp khai thác cát chứ người làng không ai chịu làm thuê cho họ cả.
“Vị trí mấy xóm xưa vốn là lòng sông Cầu, khoảng hơn thế kỷ trước, khi dòng sông đổi dòng, hình thành bãi Soi thì dân mới về đây. Cái bãi Soi như một lá chắn cho các xóm khỏi cảnh nhà cửa, ruộng vườn khỏi bị sụt lún. Tôi chẳng hiểu sao bờ sông Cầu đã sạt lở như thế mà người ta vẫn cấp phép để khai thác cát ở bãi Soi, trong khi mấy năm trước tỉnh đã đầu tư mấy chục tỷ đồng để kè bờ sông ở xóm Đò, ngay ở trên xóm tôi. Nếu không có trận lụt này thì vừa rồi người ta lại tập trung máy định khai thác rồi, chúng tôi buộc phải có phương án bảo vệ”...