Định danh cây dong riềng Bình Lư
Từ lâu, sản phẩm miến dong Bình Lư (huyện Tam Đường cũ) của tỉnh Lai Châu đã trở thành sản vật nổi tiếng mà bất cứ ai cũng muốn mua làm quà mỗi khi có dịp đi qua. Nhưng, điều khiến chúng tôi vô cùng bất ngờ, ấy là sản phẩm miến dong Bình Lư nức tiếng lại không phải là nghề truyền thống của bà con bản địa. Nó là nghề mới, theo chân bà con vùng xuôi lên khai hoang làm kinh tế mới giai đoạn những năm 1960 về trước.

Ông Nguyễn Ngọc Ánh - một trong những người tiên phong định danh cây dong riềng ở xã Bình Lư. Ảnh: Kiên Trung.
Ở Bình Lư có một nhóm khoảng vài chục hộ từ Nam Định lên rồi ở lại. Ông Nguyễn Ngọc Ánh - Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp Bình Lư - “bà đỡ” của sản phẩm miến dong Bình Lư OCOP 3 sao bây giờ - là một trong số đó.
"Những ngày đầu, bà con dưới xuôi lên mạn ngược chưa quen thông thổ, chưa khai hoang vỡ đất thành hình vùng canh tác nông nghiệp ổn định, chưa hình thành mùa vụ như ngày nay. Cây trồng, vật nuôi cũng vừa làm vừa thử nghiệm... Khi ấy, nhà nào cũng thiếu ăn, thế là phải trồng thêm cây ngắn ngày vụ giáp hạt. Cây dong riềng là cây cứu đói những ngày đó”, ông Ánh ôn chuyện.
Những cây giống mới, gặp đất mới, thường vụ đầu tiên bao giờ cũng cho năng suất cao, chất lượng tốt. Cây dong riềng ở đất Tam Đường không chỉ thích ứng với đất mới nhanh mà nó còn chứng tỏ rất hợp với đất đồi, thổ nhưỡng, khí hậu của vùng Tây Bắc. Củ dong riềng thu hoạch về làm thức ăn cho người, sau nhiều quá thì làm thức ăn chăn nuôi.
Dùng cho chăn nuôi vẫn không xuể, phải nghĩ cách chế biến thành sản phẩm từ củ dong để tích trữ, bảo quản lâu ngày hơn. Những người dưới xuôi mang theo nghề làm bún bánh có cơ hội sử dụng kỹ nghệ. Sản phẩm miến dong xuất hiện ở Bình Lư bắt nguồn như thế, nhưng vẫn chưa phải là hàng hóa mà chỉ thuần túy tự cung tự cấp.
Kinh tế ngày càng đi lên, nông nghiệp định hướng phát triển theo hướng hàng hóa, và sản phẩm nông nghiệp ngày càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng, đáp ứng đủ bộ các chỉ số an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường. Năm 2014, ông Ánh vận động các hộ dân sản xuất miến dong trong xã cùng liên kết thành lập hợp tác xã, xây dựng thương hiệu tập thể, đăng ký nguồn gốc xuất xứ vùng trồng, gắn chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm…, nghĩa là làm ăn bài bản để đưa miến dong Bình Lư là sản phẩm hàng hóa, tăng sức cạnh tranh, thương mại. Đợt này, 13 hộ cùng tham gia.

Từ cây cứu đói vụ giáp hạt, dong riềng đang trở thành cây chủ lực ở Lai Châu, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững. Ảnh: Tú Thành.
Mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp Bình Lư do ông Ánh làm Giám đốc là một mô hình đặc biệt: không có xã viên, mỗi cơ sở sản xuất là một thành viên cùng tuân thủ những nguyên tắc, nội quy, quy trình, công nghệ chế biến sản xuất; đăng ký các nội dung bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm cho sản phẩm…
“Muốn đi xa thì đi cùng nhau. Muốn bền vững thì phải đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, phải bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm. Những điều này, bà con chúng tôi đã thấm nhuần, và bảo nhau thực hiện”, ông Ánh chia sẻ đầy tâm huyết.
Vừa qua, Đảng ủy xã Bình Lư đã thống nhất thông qua đề án xây dựng cụm làng nghề sản xuất miến dong truyền thống tập trung tất cả các cơ sở trong xã, có nơi trình diễn để người tiêu dùng trải nghiệm các công đoạn làm miến; khu trưng bày sản phẩm bài bản, quy mô để làng nghề có thêm nhiều không gian phát triển. Với một cựu chiến binh luôn tâm niệm “đi xa, đi bền, nói thật, làm thật” như ông Ánh, đề án này là một bước tiến lớn, là cơ hội cho các cơ sở sản xuất miến dong.
Vị trí thực hiện dự án là khu đất rộng 7ha trước đó là khu nghiên cứu giống thủy sản nhưng không hiệu quả được chuyển đổi để làm không gian làng nghề, quy hoạch các khu sản xuất, trưng bày riêng rẽ, chuyên nghiệp; gần 100 cơ sở sản xuất trong xã sẽ được quy hoạch ra khu vực sản xuất tập trung, tách xa khu dân cư để đảm bảo vệ sinh môi trường.
“Buôn có bạn, bán có phường, thay vì đơn độc, cá thể sản xuất một mình, phải làm bài bản, quy mô thì mới ra nong ra né được. Điều mừng hơn nữa là thay đổi mô hình chính quyền, cán bộ xã gần dân và rất sát sao trong công việc, có gì khúc mắc là chúng tôi có thể gặp trực tiếp lãnh đạo xã để nhờ tư vấn, giải đáp, các anh đều rất rốt ráo”, ông Ánh nói.
Người "tác duyên" sâm khoai và củ dong riềng
Năm 2021, cơ sở sản xuất miến dong của gia đình ông Ánh thí điểm đưa khoai sâm làm nguyên liệu kết hợp sản xuất miến dong. Sâm khoai, hay còn gọi là khoai sâm, trồng nhiều ở Lào Cai. Các huyện Bát Xát, Y Tý… là thủ phủ sâm khoai. Củ này, người ta vẫn thường ăn sống như củ đậu, hay cho vào ăn lẩu vì rất nhiều nước, ăn mát, có vị ngọt dịu.
Trong y học, sâm khoai được biết tới với nhiều công dụng tốt cho tiêu hóa, hỗ trợ giảm cân, bổ trợ tim mạch, nội tiết, hỗ trợ chức năng gan (giúp thanh lọc, giải độc gan và hỗ trợ tăng cường chức năng của gan…), tính hàn. Củ dong riềng, giống như củ sắn, khoai… lại có tính nóng, ăn lúc đói thường gây ra tình trạng nóng ruột, cồn, nạo ruột. Nếu kết hợp củ sâm khoai tính hàn với củ dong riềng sẽ đảm bảo tốt hơn cho người dùng, cân bằng những đặc trưng của các loại củ nói trên thì quá hay. Vậy là ông Ánh thử nghiệm.
Loay hoay mất 3 tháng thì ra được công thức, tỷ lệ. Ban đầu, ông Ánh cho tỷ lệ 60% khoai sâm vào bột dong, đảo trộn. Thất bại, tỷ lệ khoai sâm quá nhiều, bột miến bị nhão, tính liên kết không cao. Giảm xuống còn 30%, vẫn không được. Có sự hỗ trợ của cán bộ Sở Khoa học Công nghệ, Phòng Nông nghiệp huyện Tam Đường (cũ), các nhà nghiên cứu của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, cuối cùng, công thức cho miến dong - sâm khoai được hình thành: đưa về tỷ lệ 40% sâm khoai - 60% bột dong riềng. Sản phẩm miến dong Sin Cô ra đời.

Đặc sản miến dong Bình Lư (tỉnh Lai Châu). Ảnh: Tú Thành.
“Chất lượng sản phẩm hơn hẳn, các thuộc tính hạn chế của miến dong riềng được khắc chế, cân bằng, trung hòa, mà quan trọng nhất là củ sâm khoai của đồng bào trồng có đầu ra, cây nọ “cõng” cây kia để cùng phát triển”, ông Ánh phân tích.
Học theo cách thức của ông Ánh, nhiều cơ sở ở Bình Lư cũng đang áp dụng sản xuất miến dong - sâm khoai, mỗi xưởng sử dụng 4 - 5 tấn sâm khoai/năm. Củ dong riềng dắt tay củ khoai sâm mở hướng tiêu thụ nông sản cho người nông dân. Ngoài ra, còn có rất nhiều loại nông sản khác cũng được người Bình Lư áp dụng, kết hợp, thành miến dong đỗ đen, miến dong đỗ xanh, miến dong sắn dây…
Cây dong riềng đã thay da, đổi thịt cả xã Bình Lư, tạo thành ngành nghề sản xuất mũi nhọn của xã miền núi trên đất Tam Đường, có vai trò đặc biệt trong quá trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn. Theo cây dong riềng, chính quyền đã đưa ra nhiều chính sách thúc đẩy phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác… để hỗ trợ người dân.
Ngoài Hợp tác xã nông nghiệp và dịch vụ Bình Lư do ông Ánh làm Giám đốc, còn có 2 hợp tác xã, 100 hộ cá thể đang hoạt động cùng lĩnh vực sản xuất miến dong. Mỗi năm, Bình Lư sản xuất được 200 tấn miến, đạt doanh thu gần chục tỷ đồng, tạo việc làm, thu nhập cho cả ngàn lao động tại chỗ.
Năm 2020, sản phẩm miến dong của HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Bình Lư được công nhận đạt sản phẩm OCOP 3 sao. Đầu năm 2021, địa danh Bình Lư được chấp thuận để đăng ký nhãn hiệu chứng nhận miến dong Bình Lư. Cú bắt tay của 3 nhà đã giúp rộng đường hơn cho sản phẩm miến và cây dong riềng thành cây chủ lực.