Chủ động kiểm soát chất thải tại các KCN, CCN
Tính đến nay, toàn tỉnh Hậu Giang có 8 KCN, CCN, trong đó có 2 KCN đang hoạt động trọng điểm là KCN sông Hậu (giai đoạn 1, huyện Châu Thành) và KCN Tân Phú Thạnh (giai đoạn 1, huyện Châu Thành A). Với tổng khối lượng nước thải phát sinh mỗi ngày lên tới gần 20.000m3/ngày đêm, cộng thêm hàng trăm tấn rác thải công nghiệp thông thường, rác thải nguy hại, đây là thách thức lớn đối với tỉnh Hậu Giang trong công tác kiểm soát môi trường.

Hiện nay toàn bộ nước thải phát sinh tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đang hoạt động tại các KCN trên địa tỉnh Hậu Giang đều được xử lý theo quy định. Ảnh: Lý Anh Lam.
Trước những thách thức nêu trên, tỉnh Hậu Giang đã chủ động đầu tư hệ thống hạ tầng xử lý nước thải tập trung tại 6/8 KCN, CCN. Tất cả lượng nước thải từ các cơ sở sản xuất đều được thu gom về hệ thống xử lý tập trung trước khi xả ra môi trường. Điều đáng ghi nhận là, các kết quả quan trắc cho thấy chất lượng nước sau xử lý đều đạt quy chuẩn quốc gia QCVN 40:2011/BTNMT (cột A), đủ điều kiện để xả thải vào nguồn tiếp nhận mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái các sông, kênh rạch.
Tại các điểm tiếp nhận nước thải của các KCN, CCN như sông Ba Láng, vàm Cái Cui, vàm Mái Dầm, kênh Xáng Búng Tàu... đều duy trì chất lượng nước mặt ở mức tốt, các chỉ số như pH, DO, BOD5, COD, kim loại nặng đều nằm trong ngưỡng an toàn theo QCVN 08:2023/BTNMT.
Không chỉ kiểm soát chặt chẽ đầu ra nước thải, tỉnh Hậu Giang còn đầu tư lắp đặt các trạm quan trắc tự động tại các vị trí giáp ranh với KCN, CCN để theo dõi liên tục diễn biến chất không khí. Các dữ liệu quan trắc về khí thải đều được truyền dẫn về Sở Nông nghiệp và Môi trường để quản lý, đánh giá và kịp thời ứng phó khi phát hiện dấu hiệu bất thường.
Hiện nay, các chỉ số quan trắc tại nhiều vị trí trong và xung quanh các KCN, CCN như SO₂, NO₂, CO, TSP, NH₃, H₂S đều đáp ứng quy chuẩn quốc gia về chất lượng không khí xung quanh (QCVN 05:2023/BTNMT, QCVN 26:2010/BTNMT). Điều này chứng tỏ công tác xử lý khí thải tại các cơ sở sản xuất đang vận hành hiệu quả, giúp bảo vệ không khí trong lành cho người dân khu vực lân cận.
Một điểm nhấn trong công tác bảo vệ môi trường ở các KCN, CCN tại Hậu Giang đó là việc xử lý khối lượng chất thải nguy hại, chất thải rắn công nghiệp thông thường phát sinh từ sản xuất công nghiệp. Theo ngành chức năng tỉnh Hậu Giang, tổng khối lượng chất thải rắn công nghiệp thông thường phát sinh trên địa bàn tỉnh khoảng 164.000 tấn/năm; chất thải nguy hại khoảng 652 tấn/năm. Để xử lý triệt để khối lượng chất thải phát sinh, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đều đã ký hợp đồng với đơn vị chuyên trách thu gom, vận chuyển và xử lý.
Với tỷ lệ xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường đạt 100%, chất thải nguy hại đạt 99,8% là minh chứng rõ ràng cho sự nghiêm túc và trách nhiệm của chính quyền địa phương lẫn doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường trong lành tại các KCN,CCN.
Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng
Không chỉ dừng lại ở các giải pháp trước mắt, tỉnh Hậu Giang còn xây dựng định hướng phát triển các KCN, CCN gắn với bảo vệ môi trường.

Một góc hệ thống xử lý nước thải tập trung tại KCN Tân Phú Thạnh, giai đoạn 1 (huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang). Ảnh: Lê Hùng.
Theo định hướng phát triển công nghiệp đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 tỉnh Hậu Giang sẽ thành lập mới 7 KCN và 5 CCN. Các KCN, CCN này sẽ được quản lý chặt chẽ từ mở rộng sản xuất đến bảo vệ môi trường. Đặc biệt, các dự án đầu tư mới buộc phải tuân thủ nghiêm các tiêu chí môi trường từ giai đoạn lập quy hoạch đến khi đi vào vận hành.
Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hậu Giang, tỉnh Hậu Giang xác định phát triển kinh tế không thể tách rời bảo vệ môi trường. Vì vậy, công tác kiểm soát ô nhiễm được thực hiện ngay từ khâu thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cấp phép xây dựng và suốt vòng đời dự án. Các doanh nghiệp, đặc biệt là chủ đầu tư hạ tầng KCN, CCN, buộc phải lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, thực hiện chương trình giám sát định kỳ đúng với hồ sơ môi trường đã được phê duyệt.
Cùng với đó, tỉnh Hậu Giang cũng đã ban hành kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu các nguồn thải lớn trên địa bàn. Việc rà soát, khoanh vùng các cơ sở có nguy cơ ô nhiễm cao được triển khai đồng bộ, giúp thiết lập cơ chế cảnh báo sớm và ứng phó kịp thời khi sự cố xảy ra.
Bên cạnh đó, tỉnh Hậu Giang cũng thực hiện phân loại các loại hình sản xuất theo mức độ rủi ro môi trường để xây dựng kế hoạch giám sát phù hợp. Những ngành có khả năng xảy ra sự cố môi trường cao sẽ được đưa vào diện theo dõi đặc biệt góp phần phòng ngừa từ sớm, từ xa.
Trong công tác thu hút đầu tư, tỉnh Hậu Giang kiên quyết không phê duyệt các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu hao năng lượng, phát sinh chất thải lớn hoặc thuộc danh mục có nguy cơ ô nhiễm cao. Thay vào đó, tỉnh ưu tiên các ngành nghề xanh, thân thiện với môi trường, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế tuần hoàn.
Ngoài ra, để đảm bảo các quy định bảo vệ môi trường được thực thi một cách thực chất, tỉnh Hậu Giang cũng sẽ đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất các doanh nghiệp, cơ sở hoạt động trong các KCN, CCN. Các hành vi vi phạm pháp luật môi trường được xử lý nghiêm minh, tạo sự răn đe và thúc đẩy ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp. Đồng thời nâng cao vai trò giám sát cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường.
Trong quá trình vươn lên trở thành một địa phương có nền công nghiệp phát triển năng động, tỉnh Hậu Giang không chỉ chú trọng thu hút đầu tư và mở rộng các KCN, CCN, mà còn đặc biệt coi trọng việc kiểm soát môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên. Những nỗ lực mạnh mẽ của tỉnh trong quản lý chất thải, hiện đại hóa hạ tầng môi trường và giám sát ô nhiễm đang từng bước khẳng định một hướng đi đúng đắn và bền vững.
Hiện nay tỉnh Hậu Giang có 81 doanh nghiệp, cơ sở đang hoạt động sản xuất tại các KCN, CCN với các ngành chính như chế biến các loại thủy hải sản,lương thực, trái cây; chế biến thức ăn gia súc, thủy hải sản; sản xuất hàng tiêu dùng, nước giải khát, hàng gia dụng, bao bì; sản xuất thép… Hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, cơ sơ đang giải quyết việc làm ổn định cho khoảng 33.800 lao động, trong đó có khoảng 59% lao động là người ở địa phương.