Trong hành trình điều tra nghiên cứu lĩnh vực địa chất và khoáng sản Việt Nam, một hành trình dài đánh dấu sự khởi đầu đầy thách thức, công tác điều tra địa chất từ năm 1919, với việc lập bộ bản đồ địa chất tỷ lệ 1/500.000 toàn Đông Dương, hoàn thành năm 1945. Từ những bước đi đầu tiên mang tính thăm dò, khảo cứu, ngành địa chất đã dần hình thành nền tảng khoa học – kỹ thuật vững chắc, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Đoàn kiểm tra của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam kiểm tra công tác thi công của Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc, năm 2023. Ảnh: Mai Anh.
Năm 1954 đánh dấu bước ngoặt với sự ra đời của Sở Địa chất thuộc Bộ Công thương Việt Nam, mở ra giai đoạn mới. Công trình chỉnh lý “Bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1/500.000” (1960-1963) do tập thể các nhà địa chất Việt Nam phối hợp cùng Liên Xô (cũ) đã đặt viên gạch quan trọng cho ngành.
Từ đó, hàng loạt công trình lớn ra đời: bản đồ khoáng sản miền Bắc năm 1972, bộ bản đồ địa chất, khoáng sản, địa mạo, vỏ phong hóa… toàn miền Nam sau năm 1975; bản đồ khoáng sản cả nước năm 1980 với 1.796 mỏ và điểm quặng đã đăng ký. Đặc biệt, những phát hiện bauxit laterit, cassiterit, vàng, quặng phóng xạ Nông Sơn hay đá quý ở Kon Tum, Sông Hồng đã mở ra triển vọng to lớn. Năm 2005, hai công trình trọng điểm của giai đoạn này được vinh dự trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ.
Bước tiến vượt bậc từ cuối thế kỷ XX
Thập niên 1980 và 1990 chứng kiến hàng loạt chương trình đo vẽ bản đồ tỷ lệ 1/200.000 và 1/50.000 phủ khắp cả nước. Đến năm 1994, Việt Nam đã hoàn thành toàn bộ bản đồ 1/200.000; đến nay, tỷ lệ 1/50.000 đã phủ kín gần 77,4% diện tích đất liền. Cùng với đó là các chương trình đo bay địa vật lý, phóng xạ, trọng lực, lập nên hệ thống bản đồ hiện đại phục vụ nghiên cứu và quy hoạch khoáng sản.
Song song với đó, địa chất thủy văn, địa chất công trình, địa chất biển cũng được chú trọng. Đặc biệt, từ năm 1992, các công trình điều tra địa chất biển tỷ lệ 1/500.000 trên diện tích gần 100.000 km² ven bờ đã góp phần quan trọng trong chiến lược phát triển biển đảo do một tập thể đông đảo các nhà địa chất Việt Nam với sự giúp đỡ của các nhà địa chất Liên Xô (cũ) tiến hành từ năm 1960-1963.

TS. Vũ Mạnh Hào, Phó Trưởng phòng Địa chất, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam kiểm tra tại thực địa đề án kim loại vùng Trung Trung bộ. Ảnh: Mai Anh.
Thành quả đã được gặt hái qua từng giai đoạn 2021-2025. Theo Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cùng các đơn vị liên quan đã triển khai 25/25 nhiệm vụ, trong đó 16 nhiệm vụ đã hoàn thành tính đến cuối năm 2024.
Ngành đã đạt được những kết quả nổi bật như: Tại vùng Tây Bắc, hoàn thành bản đồ địa chất - khoáng sản tỷ lệ 1/50.000 trên 13.081 km²; đánh giá hiện trạng 1.305 mỏ; phát hiện tài nguyên cấp 333 cho 110 mỏ; bàn giao sản phẩm và mẫu vật cho 14 tỉnh.
Tại Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, xác định tài nguyên cát biển 680 triệu m³, phục vụ nhu cầu san lấp các dự án cao tốc và hạ tầng. Ven biển Việt Nam thành lập bộ bản đồ địa chất công trình tỷ lệ 1/100.000 trên 25.400 km² đất liền và 40.000 km² biển nông.
Đề án Bay đo từ - trọng lực tỷ lệ 1/250.000 biển, hải đảo đã hoàn thành 268.768 km², lập bản đồ cấu trúc sâu vỏ Trái Đất; đề án đánh giá tiềm năng cát trắng vùng ven biển Trung Bộ, tài nguyên ước tính 8,3 tỷ tấn, trong đó 964 triệu tấn có thể chuyển giao thăm dò.
Đối với các đề án điều tra địa chất môi trường, khoáng sản độc hại, địa chất, đã xây dựng bản đồ môi trường phóng xạ, điều tra khoáng sản độc hại, đề xuất giải pháp phòng ngừa tác hại môi trường.
Luật mới - nền tảng cho giai đoạn phát triển tiếp theo
Sau khi Luật Khoáng sản năm 2010 có hiệu lực, nhiều chủ trương mới và chính sách mới của Đảng, nhà nước liên quan đến quản lý, bảo vệ tài nguyên trong đó có tài nguyên khoáng sản. Luật này đã cụ thể một số nội dung về đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư…
Ngày 29/11/2024, Quốc hội thông qua Luật Địa chất và Khoáng sản (số 54/2024/QH15), thay thế Luật Khoáng sản 2010. Đây là bước ngoặt lớn, khẳng định địa chất và khoáng sản là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý. Thành quả 13 năm thực thi, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước và yêu cầu của hội nhập quốc tế sâu rộng đã đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện các quy định của Luật Khoáng sản.

Đoàn kiểm tra của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam kiểm tra công tác thi công đề án kim loại vùng Trung Trung bộ. Ảnh: Mai Anh.
Điểm mới căn bản trong luật được cụ thể, trong đó xác định 7 loại tài nguyên địa chất: khoáng sản, di chỉ, di sản, địa nhiệt, vị thế, cấu trúc tàng trữ và không gian lòng đất; hoạch định cơ chế xã hội hóa đầu tư điều tra địa chất: cho phép tổ chức, cá nhân góp vốn điều tra và được hưởng các quyền lợi như ưu tiên cấp phép thăm dò.
Đồng thời, thiết lập cơ sở dữ liệu địa chất và khoáng sản thống nhất toàn quốc, phục vụ quản lý từ trung ương đến địa phương và phân cấp cho UBND cấp tỉnh trong việc tổ chức điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng một số nhóm khoáng sản phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Tầm nhìn đến 2045 đã thể hiện rõ chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều Nghị quyết với nhiều quan điểm, chính sách về địa chất, khoáng sản cần thể chế hoá. Tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên...”.
Nghị quyết số 24-NQ/TW năm 2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Nghị quyết này được cụ thể hóa bằng việc “Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; quán triệt và vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc: người gây ô nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; người được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”.
Đặc biệt, năm 2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhu cầu phát triển kinh tế xanh, tuần hoàn và bền vững, công tác điều tra cơ bản địa chất và khoáng sản không chỉ nhằm tìm kiếm tài nguyên, mà còn là cơ sở khoa học cho quy hoạch, quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu.

Các nhà địa chất khảo sát vết lộ cuội kết mylonit ở Phú Vĩnh, sông Cầu, Phú Yên (năm 1980). Ảnh: Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
Với nền tảng hơn một thế kỷ trong công tác điều tra địa chất và 80 năm xây dựng và phát triển, cùng khung pháp lý mới, ngành Địa chất Việt Nam được kỳ vọng sẽ trở thành trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, vừa khai thác hiệu quả nguồn lực khoáng sản, vừa bảo đảm phát triển bền vững, nâng tầm vị thế Việt Nam trong khu vực và thế giới.