| Hotline: 0983.970.780

Hình thành nền công nghiệp khai khoáng tiên tiến, gắn với mô hình kinh tế xanh

Thứ Tư 27/08/2025 , 15:33 (GMT+7)

Năm 2025 đánh dấu chặng đường 80 năm ngành Địa chất Việt Nam và cũng là thời điểm Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 bắt đầu có hiệu lực.

Trên chặng đường 80 năm qua, ngành Địa chất đã luôn đồng hành cùng sự phát triển của đất nước. Từ những năm đầu kháng chiến, bước chân của các cán bộ địa chất đã đi khắp núi rừng tìm kiếm tài nguyên, góp phần bảo đảm nguồn lực cho sản xuất và quốc phòng. Đến thời kỳ đổi mới, ngành tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ điều tra, đánh giá khoáng sản phục vụ cho các ngành công nghiệp trụ cột như sắt thép, xi măng, xây dựng, năng lượng...

Khai trường khai thác mỏ đồng Sin Quyền (Lào Cai). Ảnh: Lan Chi.

Khai trường khai thác mỏ đồng Sin Quyền (Lào Cai). Ảnh: Lan Chi.

Luật Địa chất và Khoáng sản số 54/2024/QH15 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2024, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 cùng các Nghị định quy định chi tiết đã mở ra mốc pháp lý mới cho ngành khai khoáng và ghi nhận là một trong những thành tựu của ngành Địa chất đạt được sau 80 năm xây dựng và phát triển.

Không chỉ thay thế Luật Khoáng sản 2010, Luật còn thể chế hóa nhằm hoàn thiện chính sách theo định hướng của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2022 về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, Luật đã thể chế hóa mục tiêu xây dựng ngành khai khoáng hiện đại, minh bạch, gắn với bảo vệ môi trường và mô hình “kinh tế xanh - kinh tế tuần hoàn”; tạo hành lang pháp lý vững chắc, giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư lâu dài.

Công nghệ tiên tiến và kinh tế tuần hoàn - xu hướng mới của khai khoáng

Theo đánh giá của Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia (Bộ NN-MT), Luật Địa chất và Khoáng sản mang lại nhiều cải cách và cơ hội thiết thực cho các doanh nghiệp khai khoáng. Một trong những điểm đổi mới quan trọng là kéo dài thời gian ưu tiên cấp phép khai thác.

Theo đó, tổ chức, cá nhân đã thăm dò, đã công nhận trữ lượng được ưu tiên nộp hồ sơ xin cấp phép khai thác trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày được công nhận. Quy định mới này dài gấp 6 lần so với Luật Khoáng sản 2010, giúp doanh nghiệp có thêm thời gian hoàn thiện thủ tục đầu tư, chuẩn bị tài chính và bảo vệ môi trường, giảm thiểu rủi ro thủ tục giấy tờ, tạo thuận lợi khi triển khai dự án.

Ưu tiên sử dụng công nghệ tiên tiến cũng là một điểm mới. Luật tiếp tục khẳng định khi khai thác khoáng sản phải ưu tiên áp dụng công nghệ tiên tiến, phù hợp với quy mô và đặc điểm từng mỏ, nhằm thu hồi tối đa các loại khoáng sản được phép khai thác. Quy định này khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị hiện đại, thân thiện môi trường, nhằm chuyển hướng từ phương thức truyền thống sang mô hình khai khoáng “xanh”, giảm hao phí tài nguyên và tác động môi trường.

Các nhà địa chất thuộc Liên Đoàn Địa chất xạ - hiếm (Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) khảo sát thực địa tại huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam vào năm 1994. Ảnh: Phú Quang.

Các nhà địa chất thuộc Liên Đoàn Địa chất xạ - hiếm (Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) khảo sát thực địa tại huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam vào năm 1994. Ảnh: Phú Quang.

Tiếp đó là khuyến khích kinh tế tuần hoàn. Luật tiếp tục cho phép khai thác khoáng sản tận thu tại bãi thải mỏ sau khi đóng cửa; khẳng định việc cho phép sử dụng đất đá thải, quặng đuôi cho công tác cải tạo, phục hồi môi trường hoặc sản xuất công nghiệp, giúp giảm áp lực ô nhiễm và tạo thêm nguồn thu cho doanh nghiệp.

Cách tiếp cận này giúp ngành khai khoáng Việt Nam chủ động hơn trong xu hướng toàn cầu về khai thác tuần hoàn, tái sử dụng tài nguyên nhằm tiết kiệm và bảo vệ thiên nhiên; tạo cơ hội để các doanh nghiệp bắt kịp xu hướng quốc tế về khai khoáng bền vững và giảm thiểu carbon, “hình thành nền công nghiệp khai khoáng tiên tiến, hiện đại gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh”.

Doanh nghiệp và cộng đồng cùng hưởng lợi

Không chỉ tạo động lực đổi mới công nghệ, Luật Địa chất và Khoáng sản còn hướng tới xây dựng cơ chế quản lý minh bạch và hài hòa lợi ích.

Chuyên viên cao cấp thuộc Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia cho rằng Luật đã đặt nền móng cho môi trường đầu tư minh bạch hơn và bảo đảm lợi ích hài hoà giữa “Doanh nghiệp - Nhà nước và người dân”. Theo đó, quy định xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về địa chất, khoáng sản đồng bộ, tập trung, thống nhất. Bộ Nông nghiệp và Môi trường được giao nhiệm vụ thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia, kết nối thông tin địa chất, khoáng sản trên toàn quốc.

Luật Địa chất và Khoáng sản đặt nền móng cho môi trường đầu tư minh bạch hơn. Ảnh: Lan Chi.

Luật Địa chất và Khoáng sản đặt nền móng cho môi trường đầu tư minh bạch hơn. Ảnh: Lan Chi.

Khi vận hành cơ sở dữ liệu, các nhà đầu tư sẽ dễ dàng tra cứu thông tin trữ lượng, điều kiện thăm dò, khai thác nhanh chóng và minh bạch. Điều này giảm thiểu tình trạng thiếu thông tin hoặc dữ liệu phân tán từng địa phương trước đây, qua đó kích thích đầu tư vào lĩnh vực khai khoáng. Đến năm 2030 Việt Nam sẽ “hoàn thành hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về địa chất, khoáng sản đồng bộ, tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia” phục vụ nghiên cứu khoa học và ra quyết định đầu tư của các doanh nghiệp.

Bên cạnh việc hỗ trợ doanh nghiệp, Luật quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng tại địa phương có mỏ khoáng sản. Theo đó, Nhà nước “bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, tổ chức, cá nhân và người dân” bằng cơ chế điều tiết nguồn thu từ khai thác khoáng sản.

Cụ thể, một phần doanh thu, thuế và phí khoáng sản sẽ được phân bổ cho địa phương để đầu tư vào phát triển hạ tầng, công trình bảo vệ môi trường và các dự án an sinh xã hội. Cơ chế này giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân địa phương và giảm xung đột với doanh nghiệp.

Đồng thời, Luật cũng quy định các quyền lợi như được tham gia góp ý về biện pháp an toàn lao động, môi trường, được ưu tiên tuyển dụng lao động địa phương trong các dự án khai khoáng. Cách tiếp cận hai chiều - khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bền vững đồng thời đảm bảo lợi ích cho cộng đồng - sẽ tạo nền tảng cho phát triển khai khoáng hòa hợp và bền vững lâu dài.

Những phân tích trên cho thấy Luật Địa chất và Khoáng sản đã mở ra một giai đoạn mới cho ngành khai khoáng Việt Nam: hiện đại hơn, minh bạch hơn và bền vững hơn.

Những nhà địa chất đã in dấu chân trên khắp các nẻo đường của Tổ quốc từ núi rừng đến biển đảo. Ảnh: Phú Quang.

Những nhà địa chất đã in dấu chân trên khắp các nẻo đường của Tổ quốc từ núi rừng đến biển đảo. Ảnh: Phú Quang.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, việc có một hành lang pháp lý hoàn thiện, đồng bộ sẽ là lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam trong thu hút đầu tư khai khoáng. Luật mới đã tiếp nối hành trình 80 năm phát triển của ngành Địa chất và đáp ứng yêu cầu cấp thiết về kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu tác động môi trường; tạo cơ hội, phát triển ngành khai khoáng theo định hướng bền vững, góp phần đảm bảo an ninh tài nguyên quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Xem thêm
Công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu gần 800 đập, hồ chứa

Bộ NN-MT vừa ban hành Quyết định số 3330/QĐ-BNNMT công bố danh mục giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu tại 783 đập, hồ chứa thuộc 695 công trình trên cả nước.

Vùng Cảnh sát biển 2 đồng hành cùng ngư dân, đồng bào dân tộc Quảng Ngãi

Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2 và Quảng Ngãi tổ chức tuyên truyền pháp luật, chủ quyền biển đảo, trao tặng hơn 130 suất quà cho đồng bào dân tộc, tôn giáo

Bình luận mới nhất